Hãy cùng đánh giá Web3, công nghệ đã tạo ra sự thay đổi đáng kể trong sự phát triển của website và tìm hiểu về dữ liệu mới nhất để xem nơi chúng ta có thể đến.
Tiêu điểm chính
- Khi Web3 trưởng thành, điều quan trọng là phải có các cơ cấu để hiểu tổ chức kỹ thuật và các tương tác của nó, cũng như làm thế nào mà chúng có thể đáp ứng với các trải nghiệm người dùng mới
- Để đạt được mục tiêu này, chúng tôi đã phát triển một mô hình tích hợp của Web3 mô tả Web3 là sự phát triển “theo chiều ngang” của các công nghệ Web2
- Ở đây, chúng tôi giải thích cơ cấu mới này và đi sâu vào các khía cạnh liên quan – từ các chi tiết kỹ thuật của việc hợp lý hóa quyền truy cập dữ liệu blockchain cho đến các con số và số liệu đằng sau sự bùng nổ trong hoạt động gần đây của nền kinh tế Web3
2021 -Năm tin đồn của Web3
Vào năm 2021, đã có rất nhiều tin đồn về “Web3”. Kết quả tìm kiếm nhanh các tin tức về Web3 chỉ trong vài tháng qua bàn về vô số sự kiện lớn, từ sự phát triển công nghệ, các cơ hội tài trợ lớn cho đến việc các công ty truyền thống đã áp dụng công nghệ Web3 nhiều hơn. Ví dụ: vào tháng 10, Stripe thông báo rằng họ đang xây dựng một đội ngũ kỹ thuật chuyên về crypto để “xây dựng tương lai của thanh toán Web3”.
Nhà cung cấp cơ sở hạ tầng blockchain Alchemy đã công bố huy động được $250 triệu trong vòng gọi vốn Series C, giúp tăng định giá của họ lên $3,5 tỷ. Ngay sau khi Facebook đổi tên thương hiệu thành Meta, họ đã tiết lộ rằng metaverse của mình sẽ hỗ trợ các NFT, vì vậy mọi người có thể mua, trưng bày và bán các NFT một cách an toàn trong không gian kỹ thuật số này.
Vào tháng 11, Solana, các công ty đầu tư mạo hiểm Lightspeed và FTX đã công bố quỹ $100 triệu nhằm phát triển Web3 gaming, hỗ trợ các studio và công nghệ tích hợp Solana vào các trò chơi trên máy tính để bàn và trên di động.
Nền tảng hẹn hò và tìm kiếm bạn bè phổ biến Bumble tiết lộ rằng họ đang khám phá thông qua “lăng kính Web3” để tìm cách kết hợp blockchain và crypto vào việc khởi chạy lại nền tảng tìm kiếm bạn bè mang tên BFF của mình.
Paradigm – công ty đầu tư mạo hiểm tiền mã hóa – đã công bố số tiền khổng lồ $2,5 tỷ nhằm phát triển các ứng dụng Web3, và lưu ý rằng hành trình của Web3 và crypto chỉ mới bắt đầu khi các ứng dụng Web3 hiện chỉ đang tiếp cận một phần nhỏ đối tượng mà Web2 đã tiếp cận.
Sự quan tâm của thế giới đối với thuật ngữ “Web3” trên Google cũng đã đạt mức cao nhất từ trước đến giờ vào tháng 11, tăng khoảng 150% kể từ đầu tháng 10. Trục tung bên dưới là thước đo sự quan tâm tìm kiếm, với mức cao nhất nằm trong thời gian từ ngày 1 tháng 1 đến ngày 30 tháng 11.
Sự quan tâm của thế giới về “web3” trên Google năm 2021
Bất chấp tất cả các buzz, vẫn còn rất nhiều sự nhầm lẫn về việc Web3 thực chất là gì. Chúng tôi đã phát triển một mô hình tích hợp của Web3 tập trung vào những phát triển công nghệ đang xảy ra ở cấp độ cấu trúc web.
Tiếp theo, chúng ta sẽ thảo luận về mô hình này, bối cảnh của nó trong lịch sử web, và việc bằng cách nào mà những cải tiến đang xảy ra ở cả phần backend (phần không nhìn thấy của ứng dụng) và frontend (phần giao diện người dùng) của web có thể dẫn đến những thay đổi lớn về cách mọi người sử dụng và trải nghiệm web.
Một cơ cấu đơn giản để hiểu về công nghệ Web3
Ở một khía cạnh nào đó, “Web3” (như “Web2”) chỉ là một từ phổ biến được sử dụng để bao quát một tập hợp các hiện tượng mới lạ trên web. Các thuật ngữ này có thể gây hiểu lầm vì web không ngừng phát triển và không đột ngột “nâng cấp” từ phiên bản này sang phiên bản khác. Tuy nhiên, các giai đoạn phát triển nhanh vẫn xảy ra trong các điểm uốn nhất định trong quá trình phát triển.
Web1 vs. Web2 vs. Web3
Trong trường hợp của Web2, các cải tiến chủ yếu liên quan đến thương mại hóa và trải nghiệm xã hội có thể có trên web – một số điểm khác biệt chính bao gồm sự chuyển hướng về phía người dùng như các thực thể (entity) hạng nhất với các trang hồ sơ nổi bật, khả năng hình thành liên kết giữa nhiều người dùng, đăng nội dung dưới nhiều hình thức và các tiến bộ kỹ thuật như hệ thống nhắn tin nội bộ và Application Programming Interface – API.
Những cải tiến lớn đang diễn ra ở cả phần backend và frontend: từ cách dữ liệu được lưu trữ và được cung cấp cho đến những trải nghiệm người dùng mới mẻ với các ứng dụng ví tích hợp và các cổng truy cập Web3. Ở mức độ xã hội, hiện đang tồn tại xu hướng hướng tới một trang web được xây dựng và sở hữu công khai hơn, được quản lý bởi các tổ chức do cộng đồng sở hữu và điều hành được hỗ trợ bởi công nghệ blockchain.
Web3 vẫn trong thời kỳ đầu và quá sớm để đưa ra bất kỳ tuyên bố nào về một “cuộc cách mạng” hoặc thay thế các công nghệ Web2. Những tuyên bố như vậy có thể xuất phát từ sự thiếu rõ ràng về cách thức giao tiếp giữa máy khách (client) và máy chủ (server) hoạt động trong Web3. Tiếp theo, chúng tôi cố gắng giải quyết vấn đề này bằng cách tập trung vào các cải tiến cụ thể đang xảy ra ở mức độ client-server của cơ sở hạ tầng web.
Mô hình tích hợp của Web3
Mô hình được trình bày dưới đây là mô hình “tích hợp” – theo nghĩa nó làm nổi bật lý do tại sao Web3 có thể được hiểu là sự mở rộng theo chiều ngang của cơ sở hạ tầng Web2 nhằm tăng khả năng phân quyền, sở hữu, khả năng xác minh và thực thi của người dùng.
Ở bên trái hình, chúng tôi trình bày một minh họa đơn giản về cơ sở hạ tầng công nghệ của Web2 – hình thức chiếm ưu thế của web kể từ khoảng năm 2004. Về cơ bản, Web2, hay còn gọi là web mang tính “tham gia” và “xã hội”, bao gồm các máy khách và máy chủ giao tiếp thông qua ngăn xếp giao thức Internet.
So với “Web1” (thuật ngữ dùng để chỉ giai đoạn đầu tiên trong quá trình phát triển của web từ khoảng năm 1991 đến năm 2004) thì Web2 có thêm nhiều giao tiếp hai chiều giữa các máy khách và máy chủ hơn.
Khả năng giao tiếp từ máy khách đến máy chủ tăng lên cho phép người dùng ghi chép và cập nhật dữ liệu theo cách an toàn, đảm bảo, đáng tin cậy và có thể mở rộng (điều mà không thể thực hiện được trước đây) – do đó, đôi khi Web1 được gọi là “Web chỉ đọc” (“read-only Web”) trong khi Web2 được gọi là “Web đọc-ghi” (“read-write Web”).
Những khả năng này đã mở đường cho các cải tiến mới như hồ sơ người dùng, các hệ thống nhắn tin nội bộ và các nền tảng mạng xã hội.
Nếu tập trung vào phía máy chủ, chúng tôi nhận thấy rằng nội dung web (ví dụ: HTML / CSS, JavaScript, hình ảnh, video), logic của ứng dụng (ví dụ: để cung cấp nội dung động qua HTTP) và dữ liệu (ví dụ: dữ liệu được lưu trữ trong các hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu như MySQL) được lưu trữ trên các máy chủ tập trung và tư nhân hóa (privatized and centralized server) trong Web2.
Ngược lại, Web1 tương đối phi tập trung, với hầu hết các trang thông tin tĩnh được lưu trữ bởi các máy chủ web do các nhà cung cấp dịch vụ Internet (Internet service provider – ISP) điều hành và các dịch vụ lưu trữ web miễn phí.
Một trong những lý do cho quá trình tư nhân hóa và tập trung hóa phía máy chủ là các cơ hội kinh tế đi kèm với sự phát triển xã hội của Web2. Đây là lần đầu tiên chúng ta có thể tạo ra các thị trường kỹ thuật số phát triển mạnh mẽ. Và giống như trong bất kỳ thị trường nào, việc hiểu rõ khách hàng của mình là yếu tố quan trọng để tiếp thị hiệu quả.
Như vậy, chúng ta đã chứng kiến sự ra đời và tăng trưởng bùng nổ của tiếp thị kỹ thuật số, thương mại hóa và phổ thông hóa dữ liệu cá nhân cũng như cuộc chạy đua giữa các công ty công nghệ để sở hữu nó.
Các gã khổng lồ công nghệ sống sót sau vụ sụp đổ dot-com vẫn tiếp tục cạnh tranh cho đến ngày nay để tìm cách nắm bắt và kiểm soát giá trị này. Quyền lực trở nên tập trung bởi một số công ty kiểm soát các nguồn tài nguyên quý giá này – ví dụ: thị trường cơ sở hạ tầng đám mây bị chi phối bởi một số ít những gã khổng lồ công nghệ (ví dụ: Amazon, Microsoft, Google).
Về cơ bản, ranh giới giữa máy khách và máy chủ đã trở nên mờ nhạt trong Web2 vì máy khách cũng “cung cấp” cho máy chủ các dữ liệu và tài nguyên có giá trị. Trong quá trình này, máy khách mất quyền sở hữu các dữ liệu và tài nguyên này vì họ thường không sở hữu hoặc vận hành các máy tính thuộc máy chủ.
Kỹ thuật web3, sự phân quyền và sự “công khai”
Rõ ràng là bây giờ web đã mất đi một trong những nguyên lý cốt lõi ban đầu của mình:
“Không cần sự cho phép từ cơ quan trung ương để đăng bất cứ nội dung gì lên web, không có node kiểm soát trung tâm và vì vậy không có điểm gây lỗi (single point of failure) … và không có“ công tắc hủy diệt!”. Điều này cũng thể hiện sự tự do khỏi sự kiểm duyệt và giám sát bừa bãi. ” – The Web Foundation
Viễn cảnh phi tập trung của web đã được thay thế bằng một thực tế mà ở đó các công ty kỹ thuật số bị kiểm soát bởi các công ty công nghệ độc quyền. Tuy nhiên, sau một thời gian dài cứng nhắc, cấu trúc top-down (từ trên xuống) của ngành công nghệ có dấu hiệu đang suy yếu.
Các nhà phê bình đang bày tỏ mối quan ngại về kiểm duyệt, giám sát, thông tin giả mạo cũng như việc “khai thác” người dùng và các cơ quan giám sát đang kìm hãm các công ty công nghệ lớn để loại bỏ các hành vi độc quyền.
Song song với đó, chúng ta có một lượng lớn các nhà phát triển tài năng đang thực hiện việc xây dựng một phiên bản web mới đi theo tầm nhìn không tưởng ban đầu, đề cao các nguyên tắc tự do, hòa nhập, cộng đồng và lịch sự. Như cách nhà phát minh web Tim Berners-Lee đã nói – “web cho tất cả mọi người”.
Nhưng hai thập kỷ qua đã chứng minh rằng việc xây dựng các dapp có khả năng mở rộng và bảo mật rất khó. Có vẻ như việc kết hợp phân quyền với trải nghiệm người dùng mà chúng ta vốn đã quen và nhu cầu trong Web2 là không khả thi về mặt tính toán trên cơ sở hạ tầng Web2. Có khả năng tính tập trung phía máy chủ cũng xuất hiện như một giải pháp tính toán khả thi duy nhất để đáp ứng nhu cầu của người dùng từ các ứng dụng web.
May mắn thay, một giải pháp phi tập trung có thể tồn tại trong blockchain và các công nghệ liên quan. Ví dụ: Bitcoin là một ứng dụng dựa trên blockchain chạy theo phương thức phân tán với quy mô hiện tại khoảng 14 nghìn full node có thể truy cập được và con số này đang tiếp tục tăng, tính bảo mật công nghệ tăng theo quy mô và giá trị mạng lưới cho các người dùng cá nhân, và kích thích những người không phải người dùng tăng với mỗi hiệu ứng mạng.
Do đó, các nhà phát triển tài năng trên toàn thế giới đang tìm cách xây dựng một web mới có thể tránh những sai lầm của Web2.
Để hiểu những khác biệt chính về kỹ thuật của web mới này, trước tiên chúng ta hãy xem xét các cải tiến ở phía máy chủ (server). Trong hình bên dưới, chúng ta tập trung vào cuối sơ đồ Web3 để đưa ra một minh họa đơn giản về cách các cấu trúc dữ liệu khác nhau có thể được lưu trữ và giao tiếp trong Web3.
Các máy chủ trong Web2 vs. Web3
Trong Web2, nội dung web, logic ứng dụng và dữ liệu lần lượt được lưu trữ trong các máy chủ web tập trung, máy chủ ứng dụng và máy chủ cơ sở dữ liệu. Các thao tác người dùng thực hiện trên frontend của ứng dụng sẽ khởi động một chuỗi các yêu cầu (request) thông tin và phản hồi (respond) trên backend.
Ví dụ: một yêu cầu HTTP được gửi từ trình duyệt máy khách có thể kích hoạt máy chủ web giao tiếp với các máy chủ ứng dụng thông qua lệnh gọi API, và kích hoạt các máy chủ ứng dụng giao tiếp với máy chủ cơ sở dữ liệu thông qua các truy vấn (query) SQL. Phản hồi HTTP sau đó sẽ được gửi từ máy chủ web trở lại máy khách có chứa thông tin liên quan.
Trong Web3, các cấu trúc dữ liệu hiện được lưu trữ trong các máy chủ web tập trung, máy chủ ứng dụng và máy chủ cơ sở dữ liệu có thể lần lượt được lưu trữ trong các node IPFS, Ethereum và Arweave phi tập trung.
Dữ liệu được lưu trữ trong các máy chủ phi tập trung này (tức là các node blockchain) có thể được các máy chủ ứng dụng tập trung yêu cầu thông qua các lệnh gọi thủ tục từ xa (Remote Procedure Call – RPC) để sau đó cung cấp thông tin liên quan cho máy chủ web tập trung.
Ngoài ra, các node blockchain có thể gửi thông tin liên quan đến ứng dụng frontend Web3 chẳng hạn như ví (ví dụ: MetaMask) hoặc cổng truy cập (ví dụ: cổng IPFS) thông qua các RPC.
Đây chỉ là một ví dụ, thực tế còn có thể thực hiện các thiết lập khác. Ví dụ: nội dung như HTML có thể được lưu trữ trên các node Arweave và bộ dữ liệu có thể được lưu trữ trên các node IPFS; logic ứng dụng, các lệnh tạo-đọc-cập nhật-xóa (create-read-update-delete – CRUD) và việc hiện thực hóa tài chính có thể được thực hiện trên các node Solana hoặc một nền tảng máy tính phi tập trung khác.
Phi tập trung hóa theo thiết kế
Một trong những lựa chọn quan trọng mà các nhà phát triển cần thực hiện khi triển khai các công nghệ Web3 chính là mức độ phi tập trung để truyền tải vào thiết kế của mình. Người ta iểu sai rằng có các trang web và ứng dụng của “Web3” với “Web2”, nhưng thực tế thì sự phân biệt này ít rõ ràng nhưng lại liên tục hơn khi các ứng dụng hiện có có quyền truy cập vào phần backend Web3, mở ra nhiều tiềm năng hơn cho việc phân quyền.
Ban đầu, nhiều nhà phát triển nhắm tới mục đích phân quyền ứng dụng của mình tới mức tối đa, nhưng điều đó đã được chứng minh là chỉ nằm trên lý thuyết do bản chất chậm và tốn kém của blockchain ngày nay. Có khả năng trong tương lai gần, “các ứng dụng Web3” sẽ vẫn sử dụng cơ sở hạ tầng Web2 ở một mức độ nào đó (có lẽ chúng ta nên gắn nhãn cho chúng là ứng dụng Web 2.1, 2.2,…, 3.0 cho chính xác).
Ví dụ: Uniswap.org và các ứng dụng DeFi phổ biến khác lưu trữ frontend của mình trên các máy chủ tập trung và các miền của chúng được mua từ các máy chủ DNS tập trung.
Các ví (wallets)
Quay trở lại sơ đồ Web3 tổng thể, chúng ta có thể thấy rằng Web3 cũng đi kèm với các cải tiến trong frontend được hỗ trợ bởi các cải tiến ở backend.
Có lẽ sự phát triển nổi bật nhất cho đến nay là ví người dùng – tính năng cho phép xem thông tin blockchain như số dư tài khoản và lịch sử giao dịch một cách an toàn. Và quan trọng, chúng ta có thể “sở hữu” ví dưới dạng phần mềm hoặc phần cứng – được biết đến như các ví “self-custodial”, “non-custodial” hoặc “do người dùng kiểm soát”.
Trong trường hợp lý tưởng, chủ sở hữu, và chỉ có chủ sở hữu, có toàn quyền sở hữu và kiểm soát các private key (mật mã riêng tư) để truy cập ví. Nói cách khác, phần mềm wallet không sao chép thông tin private key, ngăn các bên thứ ba kiểm soát ví theo bất kỳ cách nào.
Lưu ý rằng những gì chúng ta “sở hữu” thực sự là private key để truy cập một địa chỉ công khai điển hình được liên kết với dữ liệu người dùng công khai, chẳng hạn như số dư tài khoản được sao chép và lưu trữ trên nhiều máy chủ theo cách phi tập trung.
Một tùy chọn khác là ví “custodial” hoặc ví “nóng” – những ví này thường được kiểm soát bởi các sàn giao dịch tập trung như Coinbase và Binance – những nơi quản lý tiền của người dùng thông qua các ví tổng hợp (pooled wallets) cũng bị kiểm soát bởi cùng một tổ chức. Như vậy, chúng cung cấp cho người dùng ít quyền sở hữu và bảo mật hơn nhưng cũng yêu cầu ít trách nhiệm hơn và tiện lợi hơn.
Ví phần mềm (Software Wallet) như MetaMask cũng có vai trò như cổng vào đối với các dapp. Để sử dụng dapp, người dùng cần biết trạng thái của các blockchain và có thể tương tác với chúng. Ví dụ: MetaMask cho phép người dùng truy cập blockchain Ethereum thông qua các node Ethereum do Infura mặc định cung cấp, mở ra quyền truy cập vào vũ trụ rộng mở của các dapp Ethereum.
Tuy nhiên, người dùng có thể thiết lập MetaMask để truy cập vào blockchain Ethereum thông qua một nhà cung cấp node khác hoặc thậm chí thông qua node của chính mình. Hoặc, họ có thể truy cập các dapp Ethereum thông qua một ví khác hoặc một ứng dụng tùy chỉnh qua các RPC. Một lần nữa, các tính năng này chỉ ra một kiểu kiểm soát người dùng liên tục – điều mà đã không thể thực hiện được trên cơ sở hạ tầng Web2.
Nếu Web2 chuẩn bị thay đổi theo hướng phổ biến với người dùng và tính xã hội thì Web3 có vẻ là về sự thay đổi về quyền kiểm soát và trao quyền cho người dùng.
Tính phi tập trung, Quyền sở hữu, Khả năng xác minh, Thực thi (DOVE)
Ở phía dưới của hình trên, một mũi tên gradient minh họa cho thực tế việc chuyển sang cơ sở hạ tầng Web3 tạo ra bốn thay đổi chính đối với trải nghiệm của người dùng – từ Tính phi tập trung (Decentralization) cho đến Quyền sở hữu (Ownership), đến Khả năng xác minh (Verifiability) và Thực thi (Execution) (viết tắt: DOVE). Chúng tôi sử dụng từ “thay đổi” chứ không phải “lợi ích” vì mỗi thay đổi chắc chắn đi kèm với cả chi phí và lợi ích.
Tính phi tập trung là kết quả của cách các máy chủ được kết nối trong cơ sở hạ tầng Web3 so với Web2. Nói một cách đơn giản, cấu trúc dữ liệu trong Web2 chủ yếu được quản lý bởi các máy chủ lớn bị kiểm soát bởi một vài thực thể (entity), trong khi trong Web3, chúng được quản lý bởi các máy chủ nhỏ hơn bị kiểm soát bởi một lượng lớn các thực thể.
Hơn nữa, trong Web2, quyền truy cập vào phía máy chủ là dành riêng cho những người sở hữu các cụm máy chủ (server farm); trong khi trong Web3, quyền truy cập vào phía máy chủ bao gồm đến mức một cá nhân cũng có thể thực sự sở hữu các máy khách và máy chủ.
Hệ thống đầu cung cấp cho người dùng một mạng dữ liệu dễ triển khai, phát triển và bảo trì hơn nhưng dễ xuất hiện các điểm gây lỗi, rủi ro bảo mật và khả năng xâm nhập quyền riêng tư cao hơn.
Hệ thống thứ hai hứa hẹn một cơ sở hạ tầng mở và trustless, có khả năng chống kiểm duyệt và không có điểm gây lỗi nào nhưng có xu hướng có thông lượng truy cập thấp hơn, yêu cầu nhiều tài nguyên tính toán hơn, quy trình triển khai và phối hợp cũng phức tạp hơn.
Quyền sở hữu là kết quả của tính stateful nguyên bản của layer blockchain trên Web3 – cách mà chúng ta công khai giữ trạng thái hoặc lịch sử bằng cách chạy các node, đây là điều được đảm bảo bởi các quy tắc đồng thuận thay vì dựa vào các nhà môi giới thông tin cá nhân (những gã khổng lồ công nghệ) – những người đóng cả 2 vai trò là người tạo và những người gác cổng đối với các trạng thái và lịch sử người dùng của chính chúng ta.
Nói cách khác, do thiếu tính stateful nguyên bản trong Web2 mà người dùng không có lịch sử – không có dữ liệu, danh tính, bảo mật hoặc giao dịch – nếu họ không yêu cầu chúng từ các bên trung gian đáng tin cậy.
Bằng cách này, thuộc tính stateful của cơ sở hạ tầng Web3 đặt nền tảng cho một cơ sở hạ tầng trustless có thể loại bỏ các bên trung gian mà không làm mất chức năng. Tuy nhiên, quyền sở hữu đi kèm với trách nhiệm. Không có các bên trung gian, chúng ta giành được quyền kiểm soát người dùng bằng cách hy sinh dịch vụ của các bên trung gian.
Khả năng xác minh (Verifiability) là kết quả của tính khả dụng công khai của dữ liệu blockchain đã thông qua cơ chế đồng thuận nhóm chịu lỗi (fault-tolerant group consensus mechanism).
Trong trường hợp một blockchain thực sự phi tập trung thì bất kỳ ai cũng có thể tải xuống và xác minh toàn bộ lịch sử của dữ liệu blockchain đã được xác thực. Không có thực thể trung gian đứng giữa người dùng và trạng thái của họ, và blockchain “thuộc về” mọi người một cách bình đẳng và công bằng.
Bằng cách này, tính phi tập trung và quyền sở hữu cho phép mức độ xác minh chưa từng có. Chúng cho phép xác minh trực tiếp những thông tin có chọn lọc và được bảo vệ bằng bản sao với nội dung về những thứ chúng ta sở hữu và những gì người khác sở hữu, lần đầu tiên mở ra khả năng cho nhiều bên không biết nhau giải quyết các thỏa thuận về giá trị qua web.
Nhược điểm ở đây là để đạt được khả năng kiểm chứng; cơ chế đồng thuận chịu lỗi cần phải có một dạng sao chép và xử lý dữ liệu giữa các node cực mạnh mà có thể nhanh chóng trở nên nặng về xử lý.
Thực thi (Execution) là kết quả của việc các hợp đồng thông minh được thực thi chính xác theo những gì được viết, không có trung gian hoặc giao thức đóng và mã không rõ ràng.
Nói cách khác, hợp đồng thông minh có khả năng tự thực hiện, với các điều khoản thỏa thuận giữa các bên tương tác với nó được viết thành các dòng mã nguồn mở. Hơn nữa, có rất nhiều thư viện hợp đồng thông minh mã nguồn mở có sẵn cung cấp các đơn vị xây dựng (building block) có thể tái sử dụng cho các dự án Web3.
Đó là cách mà Web3 trở lại với tinh thần mở và bao trùm của Web1. Thiết kế mô-đun và mở cho phép mức độ cộng tác cộng đồng và mạng lưới cấp cao hơn – điều không thể thực hiện được trong khuôn khổ Web2. Thách thức trong trường hợp này là làm cách nào để các cuộc cộng tác mạng lưới có thể phát triển và triển khai các ứng dụng với tốc độ cạnh tranh với các hoạt động Web2 tập trung.
Thảo luận
Nhìn chung, Web3 đang mở ra tiềm năng sở hữu công khai một phần lớn hơn của thế giới web (nhấn mạnh thêm một lần nữa). Nó đang thực hiện điều này bằng cách xây dựng nền tảng dữ liệu được liên kết trên phần backend mà chúng ta gọi là các blockchain – dữ liệu phi tập trung, chống kiểm duyệt, có thể xác minh và công khai.
Những phát triển công nghệ này và hệ thống trustless đã hình thành thứ mà một số người coi là một layer giá trị cơ sở (value settlement layer) mới của internet – một cách để trao đổi giá trị một cách an toàn ở quy mô toàn cầu không biên giới. Tương lai sẽ cho biết chất lượng web mới do cơ sở hạ tầng Web3 mang lại sẽ tích lũy giá trị như thế nào.
Giờ đây khi cơ sở hạ tầng Web3 đang bắt đầu tự củng cố vị trí của mình bên cạnh cơ sở hạ tầng Web2 vốn đã được kiểm chứng qua thời gian, chúng ta mong đợi các nhà phát triển tích hợp theo chiều ngang các nền tảng với các công nghệ Web3 ngày càng nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu của người dùng về phân quyền, quyền sở hữu, khả năng xác minh và thực thi – các nhu cầu đương nhiên sẽ cân nhắc đến cả lợi ích và chi phí liên quan.
Khi chuyển sang web dựa trên dữ liệu phân tán, một trong những thách thức chính sẽ là làm thế nào để người dùng và nhà phát triển có thể đưa dữ liệu blockchain vào các ứng dụng một cách hiệu quả và tiết kiệm chi phí. Nếu muốn Web3 có tính phi tập trung thì cần phải có một cơ sở hạ tầng mạng lưới node mạnh mẽ, an toàn và tiết kiệm.
Tiếp theo, chúng ta hãy tập trung vào cơ sở hạ tầng Web3 cho phép sử dụng dữ liệu blockchain một cách hiệu quả, an toàn và tiết kiệm chi phí.
Cơ sở hạ tầng Web3 tập trung so với phi tập trung
Hiện tại, các sự vận hành tập trung và phi tập trung giúp tổ chức hợp lý hóa việc truy cập dữ liệu blockchain. Ví dụ: các nhà cung cấp cơ sở hạ tầng blockchain như Infura và Alchemy cung cấp các cổng thông tin (portal) cho dữ liệu blockchain, nhưng chúng được phát triển, sở hữu và vận hành bởi các thực thể tập trung.
Mặt khác, các dự án như The Graph và Pocket Network đã cung cấp các giải pháp phi tập trung cho việc truy cập dữ liệu blockchain.
Quyền truy cập phi tập trung vào dữ liệu phi tập trung
Có vẻ như tương lai của Web3 sẽ dựa trên một layer cơ sở của dữ liệu sổ cái (ledger data) phân tán, bảo mật và bất biến trên nhiều blockchain. Như vậy, Web3 phải đối mặt với ba thách thức chính:
- Làm thế nào để đưa dữ liệu từ blockchain vào ứng dụng một cách hiệu quả
- Làm thế nào để truy cập dữ liệu thuận tiện trên nhiều blockchain
- Làm thế nào để thực hiện A và B theo cách phi tập trung
Trong một kiến trúc web phi tập trung thì một cơ sở hạ tầng node đáng tin cậy là điều cần thiết cho tính toán phi tập trung.
Một mạng máy tính phi tập trung có thể được chia thành ba thành phần tổng quát:
- Các ứng dụng. Đó là bất kỳ phần mềm nào gửi các yêu cầu API (ví dụ: truy vấn, chuyển tiếp) được chuyển đến bất kỳ node cơ sở dữ liệu công khai hoặc được mã hóa.
- Các node. Đây là các máy chủ phi tập trung cung cấp các chức năng như lưu trữ chỉ số cơ sở dữ liệu, gửi thông tin phiên làm việc (session information) tới một ứng dụng, đáp ứng các yêu cầu API do ứng dụng gửi đến và lưu trữ trạng thái mạng như số dư tài khoản và báo cáo công việc.
- Tầng mạng. Hệ sinh thái duy trì hoạt động của giao thức phi tập trung, bao gồm quản trị, quy tắc giao thức, các tác nhân liên quan và các trò chơi kinh tế mà chúng tham gia.
Như có thể thấy trong sơ đồ bên dưới, các node chuyển tiếp (relay) hoặc lập chỉ mục (index) nằm “giữa” các ứng dụng và các node blockchain (hoặc các mạng lưới máy chủ phi tập trung khác) mà chúng lấy dữ liệu từ đó. Sau khi xử lý dữ liệu từ các node blockchain, chúng gửi thông tin liên quan đến các máy chủ ứng dụng tập trung hoặc phi tập trung.
Tiếp theo, chúng ta giải thích cách mà cơ sở hạ tầng máy tính phi tập trung hoạt động với hai trường hợp ví dụ: The Graph và Project Network.
The Graph: Phân quyền lập chỉ mục (indexing) và truy vấn (query) trong một gói
Các ứng dụng Web3 có thể được hưởng lợi từ việc truy vấn dữ liệu từ một chuỗi khối bằng cách lọc hoặc tìm kiếm. Quá trình này có thể chậm và nặng về xử lý vì các blockchain lưu trữ dữ liệu và xử lý các chuyển đổi trạng thái nhưng lại không lập chỉ mục cho dữ liệu đó. Việc lập chỉ mục giúp định vị các dữ liệu có liên quan nhanh hơn và ít đòi hỏi tính toán hơn.
Trước The Graph, các nhà phát triển dapp sẽ thiết lập các chỉ số cơ sở dữ liệu của riêng mình cho người dùng và khách hàng của mình. Tuy nhiên, việc phương pháp này giữ dữ liệu đã được lập chỉ mục trong cơ sở dữ liệu tập trung (không phải các node phi tập trung) làm giảm tính trustless của dapp. Việc nhiều nhóm thiết lập máy chủ lập chỉ mục của riêng mình cũng là điều không cần thiết.
Trong The Graph, các subgraph manifest xác định dữ liệu nào cần lưu trữ và cách lưu trữ dữ liệu đó. Mặc dù các subgraph của một dự án thường được xác định bởi các nhà phát triển của dự án đó nhưng bất kỳ ai cũng có thể tự do xác định các subgraph này.
Tiếp theo, các node Graph lưu trữ dữ liệu đó trong một chỉ mục cơ sở dữ liệu (tạo một subgraph được cung cấp), liên tục quét blockchain có liên quan (ví dụ: blockchain Ethereum) để tìm các thay đổi về sự kiện và cập nhật dữ liệu cho phù hợp. Sau đó các ứng dụng có thể truy vấn endpoint kết quả thông qua GraphQL, mở ra khả năng cho việc truy cập một chỉ mục dữ liệu chuỗi chéo thông qua một ngôn ngữ truy vấn thống nhất.
Ban đầu các node lập chỉ mục do The Graph sở hữu và vận hành, nhưng vào đầu năm nay, mười dự án đã bắt đầu chuyển từ dịch vụ lưu trữ sang mainnet phi tập trung của The Graph. Cuối cùng, The Graph nhắm đến mục đích hiện thực hóa tầm nhìn của mình về một nền kinh tế dữ liệu phi tập trung hoàn toàn. Trong nền kinh tế này, giao thức Graph sẽ xác định các quy tắc mà bất kỳ ai cũng có thể chạy hoặc truy vấn một node Graph.
Làm cách nào để The Graph có thể phân quyền các nhà cung cấp ẩn danh trong khi vẫn cung cấp các bảo đảm về dịch vụ? Tất cả đều nhờ vào tầng mạng. The Graph có một cấu trúc mạng lưới giống như các giải pháp máy tính phi tập trung khác, với bốn thuộc tính sau:
- Cung (các nhà cung cấp dữ liệu) và cầu (ứng dụng, người dùng) gặp nhau trong một marketplace mở.
- Các nhà cung cấp tham gia vào một trò chơi kinh tế (stake các token) nhằm mục đích đảm bảo việc đảm bảo dịch vụ.
- Hiệu suất của các nhà cung cấp được kiểm tra bởi một số cơ chế (thông qua bằng chứng mật mã học (cryptographic proof) hoặc “fisherman” – người kiểm tra chất lượng công việc của họ và được thưởng cho việc báo cáo chính xác hành vi sai trái).
- Nếu nhà cung cấp bị phát hiện là đã thất bại trong công việc của mình, họ sẽ bị phạt theo một cách nào đó (mất một phần token đã stake hoặc không được chọn tham gia vào dịch vụ tạo doanh thu).
The Graph sử dụng mô hình work token, trong đó các nhà cung cấp node Graph stake GRT để nhận dữ liệu lập chỉ mục công việc (work indexing data) được xác minh bởi các subgraph manifest trên Graph. Mô hình này tạo ra các động lực kinh tế đối với chất lượng dịch vụ vì những người lập chỉ mục (indexer) có thể mất cơ hội làm việc hoặc chịu phạt (mất token) nếu cung cấp dữ liệu không chính xác.
Tầng mạng (network layer) hay “thị trường truy vấn” của The Graph gồm bốn tác nhân chính. Khuyến khích token cho mỗi tác nhân này được thiết kế để đảm bảo dịch vụ chất lượng cao và mang lại tiện ích token (token utility).
Các nhà phát triển. Các thực thể này xác định các subgraph. Hiện tại, họ thường là những nhà phát triển từ một giao thức nhất định tạo ra các subgraph cho dữ liệu của giao thức đó.
Tuy nhiên, về lý thuyết, bất kỳ ai cũng có thể tạo ra một subgraph dữ liệu từ một blockchain public. Hiện tại, các nhà phát triển dự kiến sẽ thay mặt cho người dùng của mình thanh toán chi phí cho các yêu cầu. Cuối cùng, The Graph hình dung rằng những người dùng cuối (end user) sẽ chi trả cho các truy vấn của riêng mình khi các giải pháp Layer 2 được triển khai rộng rãi trên các ví Web3.
Người lập chỉ mục (Indexer). Các thực thể này stake GRT để nhận việc từ mạng The Graph. Công việc của họ liên quan đến việc lập chỉ mục dữ liệu blockchain trên các Graph Node trên mỗi subgraph manifest.
Doanh thu của indexer (và theo doanh thu của người ủy quyền mở rộng) đến từ phần thưởng thu được cho công việc lập chỉ mục. Phí truy vấn tập thể từ giao thức được phân bổ cho các indexer (và người ủy quyền) tương ứng với lượng GRT được stake và họ cũng nhận được phần thưởng lập chỉ mục từ 3% mức lạm phát hàng năm của GRT.
Nhà giám tuyển (Curator). Các thực thể này báo hiệu subgraph manifest nào có chất lượng tốt hơn để các indexer biết những đối tượng nào cần lập chỉ mục trong các node Graph. Vì bất kỳ nhà phát triển nào cũng có thể khởi chạy một subgraph với dữ liệu blockchain phi tập trung nên mạng The Graph cần những tác nhân này để xác định những tác nhân hữu ích.
Các curator báo hiệu cho các indexer bằng cách stake GRT phía sau các subgraph cụ thể. Đổi lại, họ nhận được một phần phí truy vấn tạo ra bởi subgraph mà họ đã báo hiệu. Phần phí đó được xác định bằng một đường cong liên kết (bonding curve) chi trả các phần thưởng dựa trên việc curator đã báo hiệu sớm như thế nào, tạo ra một thị trường dự đoán trong đó các curator suy đoán về mức độ phổ biến trong tương lai của các subgraph..
Người ủy quyền (Delegator). Các thực thể này stake GRT cho các indexer và nhận được một phần phần thưởng lập chỉ mục và phí truy vấn mà indexer kiếm được, do indexer đặt ra. Lượng GRT mà người ủy quyền có thể stake với một indexer bị giới hạn bởi số GRT mà indexer stake.
Nó tạo ra động lực cho cả hai bên. Nhà ủy quyền kiếm được nhiều tiền hơn bằng cách ủy quyền cho các indexer “tốt nhất” – những người lập chỉ mục các subgraph quan trọng nhất do các curator xác định. Các indexer kiếm được nhiều tiền hơn bằng cách “giành được” vốn từ các nhà ủy quyền, khuyến khích indexer chia sẻ công bằng phần thu nhập của mình với nhà ủy quyền.
Hiện tại đang có 7.306 nhà ủy quyền, 2.266 curator và 160 indexer trong mạng lưới The Graph.
The Graph là một trường hợp điển hình về cách tầng mạng có thể vận hành thành công một mạng máy tính phi tập trung mà không cần một thực thể tập trung phụ trách. Đây là một giải pháp hoạt động phi tập trung để đưa dữ liệu từ blockchain đến một ứng dụng và một cách để truy cập dữ liệu một cách thuận tiện trên nhiều blockchain thông qua một ngôn ngữ truy vấn thống nhất.
Pocket: giải quyết vấn đề khuyến khích node
Giống như The Graph, Pocket có các ứng dụng, node và một tầng mạng. Có lẽ sự khác biệt chính là Pocket tập trung vào giải quyết một vấn đề cụ thể đang hạn chế tiềm năng phát triển của Web3, đó là: vấn đề khuyến khích node. Mặt khác, The Graph tự ví mình như một kiểu “Google của Web3”, nhắm đến việc tổ chức thông tin blockchain trên thế giới và làm cho nó trở hữu ích và có thể truy cập được trên toàn cầu.
Để một web phi tập trung phát triển, cần phải phát triển một cơ sở hạ tầng node đáng tin cậy. Tuy nhiên, việc các nhà phát triển vừa lưu trữ các full node của riêng mình vừa cung cấp hỗ trợ back-end cho các ứng dụng của mình là không thực tế. Do đó, các nhà phát triển Web3 đã phụ thuộc rất nhiều vào các giải pháp tập trung dẫn đến các rủi ro tập trung như các điểm gây lỗi, rủi ro bảo mật và xâm nhập quyền riêng tư.
Hiện tại đang thiếu một cơ sở hạ tầng node đáng tin cậy do các bên thứ ba điều hành.
Một trong những lý do dẫn đến việc thiếu các full node do các cá nhân và công ty điều hành là do không có khuyến khích relay node gốc (các lý do khác bao gồm sự phức tạp trong quá trình thiết lập và sự bất tiện). Để giải quyết vấn đề này, Pocket Network khuyến khích về mặt tài chính cho các cá nhân và công ty triển khai và vận hành các full node cho bất kỳ blockchain nào có nhu cầu ứng dụng.
Thông qua sự kết hợp của các ưu đãi token, bằng chứng mật mã hóa và các thuật toán lựa chọn pseudo-random, Pocket có thể tạo ra một mạng lưới chuyển tiếp phi tập trung đáng tin cậy, nơi các nhà phát triển có thể truy cập vào dữ liệu chuỗi chéo với độ bảo mật cao hơn và chi phí ít hơn so với các nhà cung cấp tập trung.
Một lần nữa, câu hỏi đặt ra là làm thế nào mà Pocket cung cấp sự đảm bảo về dịch vụ thông qua một mạng lưới phi tập trung gồm các nhà cung cấp dịch vụ mà chúng ta không biết? Tính trustless lại được thiết lập một lần nữa thông qua một tầng mạng phi tập trung mặc dù với các quy tắc và kế hoạch khuyến khích khác với The Graph.
Một điểm khác biệt chính là Pocket sử dụng mô hình phiên làm việc (session model), mô hình này không dựa vào các node lưu trữ dữ liệu được lập chỉ mục như các node trong mạng The Graph.
Các node Pocket có ba chức năng: cung cấp thông tin phiên cho ứng dụng liên hệ với nó, đáp ứng các yêu cầu chuyển tiếp được gửi bởi các ứng dụng và lưu trữ thông tin về trạng thái của mạng Pocket để phân công công việc và xác nhận các báo cáo công việc.
Các phiên làm việc (session) là cơ chế mà mạng lưới sử dụng để điều chỉnh các tương tác giữa các ứng dụng và các node. Chúng là cấu trúc dữ liệu sử dụng dữ liệu về trạng thái của mạng Pocket được lưu trữ trong các node để ghép cặp pseudo-randomly một ứng dụng với tập hợp tối đa năm nút node mỗi chuỗi để cung cấp dịch vụ mà ứng dụng đã chi trả cho.
Sau đó, hai player chính trong mạng lưới Pocket là các ứng dụng và các node chuyển tiếp, hai yếu tố này cũng đóng vai trò là trình xác thực (validator) và nhà sản xuất block cho blockchain Pocket – một cơ sở dữ liệu dựa trên Tendermint để đảm bảo sự đồng thuận giữa các ứng dụng và các node về việc cung cấp cơ sở hạ tầng.
Các node được thưởng dựa trên số lượng yêu cầu mà chúng phục vụ trong phiên làm việc. Với mỗi lần chuyển tiếp (ví dụ: lệnh gọi MetaMask để tìm nạp số dư, tìm nạp lịch sử giao dịch, gửi giao dịch, truy vấn hợp đồng thông minh) được cung cấp bởi các node và được xác thực bởi giao thức, 0,01 POKT được mint. Sau đó, phần thưởng cho mỗi lần chuyển tiếp đã được thông qua được chia như sau:
- 89% cho các node dịch vụ
- 10% cho DAO Pocket
- 1% cho nhà sản xuất block
Cuối cùng, Pocket Network đang giải quyết các vấn đề cốt lõi tương tự như The Graph – cụ thể là cách đưa dữ liệu blockchain vào một ứng dụng một cách hiệu quả, truy cập thuận tiện vào dữ liệu chuỗi chéo và phân quyền các quy trình này.
Tuy nhiên, phạm vi lại khác nhau khi Pocket tập trung nhiều hơn vào việc trở thành một API đa chuỗi khối thống nhất thông qua khuyến khích node, trong khi The Graph tập trung nhiều hơn vào việc trở thành một công cụ tìm kiếm thống nhất cho dữ liệu blockchain.
Cơ sở hạ tầng blockchain tập trung
Về mặt kỹ thuật, tất cả những gì chúng ta cần để truy cập dữ liệu blockchain là kết nối với một node blockchain. Các node đó có thể được phân phối trong một mạng lưới phi tập trung của các cá nhân và công ty như trong mạng The Graph và Pocket, hoặc chúng có thể được sở hữu và vận hành bởi các thực thể tập trung như Infura và Alchemy.
Để minh họa sự khác biệt, hãy xem sơ đồ bên dưới.
Sự khác biệt chính giữa các cổng tập trung so với các cổng phi tập trung đối với dữ liệu blockchain là các công ty chịu trách nhiệm duy trì hoạt động của các node – tất cả các hoạt động có thể được nhóm thành một “tầng công ty” (company layer). Ngoài việc cung cấp quyền truy cập vào dữ liệu node lưu trữ đầy đủ, các tác nhân trong tầng công ty có thể quyết định thiết lập các chỉ mục cơ sở dữ liệu để hỗ trợ truy vấn liên quan đến lọc hoặc tìm kiếm.
Giống như bất kỳ mạng máy tính tập trung nào, cách tổ chức này đi kèm với những lợi ích và chi phí nhất định. Về mặt lợi ích, một giải pháp tập trung có thể làm cho việc triển khai, phát triển và bảo trì mạng dữ liệu trở nên dễ dàng hơn. Ví dụ, trong vòng một vài năm, Alchemy và Infura đã có thể phát triển và phát hành một loạt các công cụ để tạo điều kiện cho việc tạo mẫu (prototyping) và phát triển.
Tuy nhiên, cái giá phải trả là tồn tại nhiều dạng rủi ro bảo mật và các điểm gây lỗi. Ví dụ: cơ sở hạ tầng Ethereum của Infura đã gặp sự cố lớn vào năm ngoái, gây ra sự chậm trễ trong nguồn cấp dữ liệu giá (price feed) cho các token ETH và ERC-20 của các dịch vụ phổ biến, bao gồm cả MetaMask. Nó cũng khiến các sàn giao dịch crypto lớn, bao gồm Binance và Bithumb, tạm thời vô hiệu hóa việc rút các token ETH và ERC-20.
Infura tuyên bố rằng nguyên nhân gốc rễ được bắt nguồn từ việc một số thành phần trong cơ sở hạ tầng Ethereum của mình đã bị khóa cho phiên bản cũ hơn của phần mềm client Geth . Cuộc kiểm tra sau vụ việc đã làm dấy lên các cuộc tranh luận về sự phân quyền của Ethereum và đặt ra các câu hỏi về việc phụ thuộc quá mức vào các nhà cung cấp cơ sở hạ tầng blockchain tập trung.
Như đã nói, chúng ta cần lưu ý rằng Infura và Alchemy không sở hữu hoặc kiểm soát dữ liệu blockchain cơ sở mà hoạt động như các cổng thông tin tập trung cho dữ liệu phi tập trung đó. Nếu Infura hoặc Alchemy gặp sự cố, chúng ta không mất quyền truy cập vào dữ liệu blockchain. Chúng ta có thể sử dụng một nhà cung cấp cơ sở hạ tầng tập trung hoặc phi tập trung khác để truy cập vào cùng dữ liệu đó nếu cần.
Hoặc, chúng ta có thể thiết lập full node của riêng mình và tự phục vụ nhu cầu của mình. Ta có thể so sánh với ISP – nếu Comcast ngừng hoạt động, chúng ta có thể chuyển sang một ISP khác để truy cập internet.
Thảo luận
Các giải pháp cơ sở hạ tầng tập trung và phi tập trung có thể sẽ có các vai trò khác nhau trong các lần lặp (iteration) tiếp theo của Web3 tùy thuộc vào ưu và nhược điểm có liên quan.
Ví dụ: nếu các công cụ tạo mẫu và phát triển tiên tiến được săn đón cho một phần nhất định của dự án. Trong trường hợp đó, các giải pháp tập trung như Alchemy hoặc Infura có thể phù hợp cho những phần như vậy. Nếu tính trustless và bảo mật được săn lùng cho các phần khác của dự án thì các giải pháp phi tập trung như The Graph hoặc Pocket Network có thể phù hợp cho những phần đó.
Triển vọng tương lai là có một web mới với các phần quan trọng dựa trên cơ sở dữ liệu blockchain phân tán, an toàn và bất biến, giao tiếp thông qua cả cơ sở hạ tầng tập trung và phi tập trung.
Tiếp theo, chúng ta hãy tìm hiểu làm thế nào mà một số cơ sở hạ tầng blockchain phi tập trung đạt được sức hút bằng cách khảo sát các con số và các yếu tố tác động đằng sau sự gia tăng bất ngờ gần đây của Pocket Network trong hoạt động và doanh thu của mạng lưới. Bằng cách duy trì thời gian hoạt động gần như 100%, chúng ta thấy cách các nhà cung cấp dữ liệu phi tập trung như vậy hỗ trợ nền kinh tế Web3 đang phát triển như thế nào.
Case study: Pocket Network
Hoạt động của mạng lưới
Để kiểm tra mức độ sử dụng và tăng trưởng của Pocket cho đến năm 2021, trước tiên, chúng ta tập trung vào các số lần chuyển tiếp (relay) trung bình hàng ngày. Các relay chỉ đơn giản là các yêu cầu ứng dụng nhắm mục tiêu đến bất kỳ node cơ sở dữ liệu công khai nào. Biểu đồ bên dưới cho thấy số lần chuyển tiếp trung bình hàng ngày từ tháng 1 đến tháng 11 năm 2021 với khoảng cách 4 ngày.
Lượt sử dụng Pocket Network đã có sự tăng trưởng vượt bậc trong năm nay, đặc biệt là với sự gia tăng bùng nổ trong hoạt động mạng bắt đầu từ tháng 10. Đâu là các tác nhân tác động chính?
Đầu tiên, vào tháng 2, Pocket Network thông báo rằng họ sẽ bắt đầu cung cấp cơ sở hạ tầng Ethereum cho Fuse, một nền tảng xây dựng hệ thống thanh toán phi tập trung. Là một sidechain Ethereum, Fuse yêu cầu một cầu nối (bridge) Fuse-Ethereum ổn định và vận hành.
Bằng cách tích hợp với Pocket, Fuse có thể phân quyền nền tảng của mình nhiều hơn và tăng quyền riêng tư của người dùng trong khi giảm đi chi phí và sự kém hiệu quả liên quan đến việc chạy node Ethereum của riêng mình..
Sau đó, vào tháng 8, Pocket đã công bố hỗ trợ cho chuỗi xDai– một sidechain Ethereum khác có hỗ trợ stablecoin xDai được bắc cầu từ Dai trên Ethereum. Một trong những use case chính của xDai là cho phép các giao dịch diễn ra nhanh chóng với chi phí thấp trong trò chơi chinh phục không gian Dark Forest của MMO.
Tương tự, bằng cách tích hợp với Pocket, xDai có thể tăng khả năng phân quyền trong khi vẫn “thuê ngoài” (outsourcing) để phục vụ các nhu cầu về cơ sở hạ tầng Ethereum của mình.
Gần đây nhất, sự gia tăng hoạt động mạng đột ngột bắt đầu từ tháng 10 sau khi có thông báo rằng Pocket sẽ xử lý lưu lượng truy cập Harmony RPC.
Harmony là một blockchain Layer-1 có thể hoạt động như một giải pháp mở rộng Layer-2 có thể tương tác cho Ethereum bằng cách sử dụng phân vùng trạng thái (state sharding) ngẫu nhiên, cho phép xác nhận block an toàn ở tốc độ cao với phí thấp. Với mạng lưới Harmony tăng đột ngột khoảng 50 đến 100 triệu lệnh gọi API vào thời điểm đó, họ đã tìm cách định tuyến lại lưu lượng truy cập thông qua một API phi tập trung và có thể mở rộng.
Giờ đây, các nhà phát triển có thể mint các endpoint Harmony RPC từ cổng API frontend của Pocket để sử dụng trong các dapp của mình. Các endpoint do Pocket hỗ trợ này cung cấp cho các dapp một layer bổ sung về khả năng phục hồi (resilience), độ tin cậy và quyền riêng tư. Trong mạng Pocket, việc stake ứng dụng là entry point để đăng ký trở thành ứng dụng trong mạng.
Các ứng dụng khóa POKT vào một trái phiếu (bond) trong mạng lưới để được phân bổ thông lượng cho phép thực hiện chuyển tiếp qua các node mạng. Các quy tắc của trái phiếu này được xác định bởi chính sách tiền tệ và các quy tắc giao thức do Pocket DAO đặt ra.
Lượng POKT được các ứng dụng stake cho các yêu cầu chuyển tiếp đã tăng đều đặn hơn kể từ đầu năm, như được thể hiện trong biểu đồ bên dưới.
Lượng app token được stake trong Pocket Network năm 2021
Dự trữ yêu cầu chuyển tiếp hàng ngày bằng số POKT đã được stake bởi các ứng dụng tăng 40 lần. Sau đó, chúng ta có thể thấy rằng các ứng dụng đã “thanh toán” (stake đủ POKT) để đặt trước gần một tỷ lần chuyển tiếp mỗi ngày trong khi sử dụng khoảng 160 triệu hay 16% lượng dự trữ của mình. Tuy nhiên, điều này không có gì ngạc nhiên vì các ứng dụng phải có vùng lưu trữ dữ liệu dự trữ trong trường hợp hoạt động mạng tăng đột biến.
Cuối cùng, giả sử rằng các token đã được stake này dùng hết lượng dự trữ yêu cầu chuyển tiếp, khoảng hàng tỷ lần chuyển tiếp này sẽ được thanh toán dưới dạng “doanh thu” cho các nhà cung cấp chuyển tiếp, Pocket DAO và các nhà sản xuất block POKT. Bây giờ chúng ta hãy xem xét các khoản doanh thu và phần thưởng này một cách chi tiết hơn.
Doanh thu và các phần thưởng
Để chuyển các lần chuyển tiếp thành doanh thu, ta chỉ cần nhân số lượng lần chuyển tiếp với 0,01 (số lượng POKT được mint trên mỗi lần chuyển tiếp) và giá POKT. Biểu đồ bên dưới cho thấy doanh thu POKT theo tháng trong năm 2021 dựa trên số lần chuyển tiếp trung bình hàng ngày và giá POKT mỗi tháng. Dữ liệu giá bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 11.
Doanh thu Pocket Network năm 2021
Hoạt động mạng đã giảm một ít từ tháng 5 đến tháng 7, tương ứng với việc giảm trong hoạt động tổng thể trên mạng lưới Ethereum và toàn bộ thị trường crypto nói chung. Tuy nhiên, rõ ràng là doanh thu của Pocket đã tăng đột ngột trong quý này sau khi thiết lập các endpoint để kết nối với mạng lưới Harmony.
Chúng ta cũng có thể xem lượng POKT kiếm được trên mỗi node chuyển tiếp bằng cách chia số lần chuyển tiếp cho tổng số node chuyển tiếp và nhân nó với 0,89 (vì 89% lượng POKT đã mint được phân phối cho các node dịch vụ, 10% được chuyển đến DAO Pocket và 1% cho các nhà sản xuất block).
Biểu đồ bên dưới cho thấy phần thưởng hàng ngày trung bình cho mỗi node xác thực (validator node) từ ngày 1 tháng 1 năm 2021 đến ngày 8 tháng 11 năm 2021, với khoảng cách bốn ngày.
Phần thưởng hàng ngày trung bình cho mỗi node chuyển tiếp Pocket Network năm 2021
Vào đầu năm, các node POKT đã kiếm được nhiều phần thưởng hàng ngày hơn vì có ít node trong mạng lưới hơn. Biểu đồ bên dưới hiển thị số lượng các node xác thực đang hoạt động trong mạng lưới từ ngày 1 tháng 1 đến ngày 8 tháng 11, với khoảng cách bốn ngày.
Các nút (chuyển tiếp) xác thực đang hoạt động trong Pocket Network năm 2021
Cho đến nay, các node xác thực đang hoạt động đã tăng hơn 15 lần so với con số kể từ đầu năm, từ chỉ hơn 600 node lên hơn 9.000 node ở thời điểm hiện tại. Trong tháng này, phần thưởng hàng ngày trung bình cho mỗi node xác thực đã tăng lên mức trung bình 161 POKT (xấp xỉ $118 ở mức $0,73 / POKT) mỗi ngày cho mỗi node, đạt hơn 300% APY về phần thưởng POKT cho mỗi node trong mạng (giả sử mỗi node stake tối thiểu 15,150 POKT).
Nhìn nhận lại, điều đó đưa Pocket vào danh sách năm mạng lưới đứng đầu về doanh thu giao thức, đứng giữa Compound và SushiSwap dựa trên số liệu của tháng trước, với doanh thu $33,22 triệu tạo ra bởi Compound và $48,51 triệu tạo ra bởi SushiSwap.
Thảo luận
Không có gì chắc chắn rằng những phần thưởng này tồn tại bền vững về lâu dài. Lợi nhuận hấp dẫn có thể sẽ mang lại nhiều nhà cung cấp node hơn, chia nhỏ hơn nữa tổng phần thưởng của trình xác thực và phần thưởng POKT được thanh toán thông qua việc pha loãng nguồn cung (supply dilution) (mint 0,01 POKT cho mỗi lần chuyển tiếp).
Hơn nữa, có một câu hỏi đặt ra là liệu ngay từ đầu, phần thưởng được trả qua việc pha loãng nguồn cung có nên được coi là doanh thu hay không. Mặt khác, chúng đại diện cho nhu cầu thực sự về dịch vụ của Pocket. Mặt khác, cả ứng dụng và nút đều bị loãng (dilute) mỗi khi công việc được thực hiện trên mạng lưới Pocket.
Tại thời điểm chạm đỉnh vào tháng 11, giá trị vốn hóa thị trường mỗi năm (market cap per year) được tăng thêm khoảng $412 triệu. Điều đó cho thấy Pocket DAO có thể bỏ phiếu để cắt giảm phát hành POKT mới trong tương lai gần.
Ngoài ra, bất chấp những con số đáng kinh ngạc này, Pocket Network vẫn chỉ xử lý một phần nhỏ lưu lượng truy cập của các đối thủ tập trung cạnh tranh của nó, với hơn khoảng 2,4 tỷ lần chuyển tiếp Ethereum được tiến hành chỉ bởi Infura vào một ngày kỷ lục năm 2020.
Với tổng thị trường khả dụng (Total Addressable Market) khổng lồ và sự thành công trong việc tích hợp Harmony và các giao thức khác với Pocket, chúng ta có thể thấy ngày càng nhiều giao thức định tuyến lại và phân cấp lưu lượng truy cập của mình với Pocket Network để ngăn chặn hoặc đối phó với các vấn đề phát sinh từ sự phụ thuộc với cơ sở hạ tầng blockchain tập trung.
Việc liệu các cơ sở hạ tầng phi tập trung như vậy có thể hỗ trợ nền kinh tế Web3 đang phát triển mạnh mẽ với hàng tỷ người dùng dapp hay không sẽ phụ thuộc vào khả năng phục hồi (resilience) và lý tưởng hơn là tính chống phân mảnh (antifragility) của các công nghệ mạng và node.
Đánh giá Web3 mới nổi
Để kết thúc phần này, chúng ta sẽ xem xét một số số liệu về nền kinh tế Web3 mới nổi để hiểu vị trí của chúng ta hiện tại và nơi chúng ta có thể hướng đến.
Mặc dù không có chỉ số duy nhất để theo dõi sự phát triển của Web3 nói chung nhưng chúng ta có thể xem xét một số thước đo proxy theo dõi các khía cạnh khác nhau của Web3, từ DeFi đến NFT cho đến việc áp dụng các ứng dụng frontend Web3 như các ví.
Dưới đây, chúng ta sẽ xem qua đồ thị về tổng số các địa chỉ Ethereum duy nhất và các địa chỉ Ethereum duy nhất có tương tác với các giao thức DeFi từ ngày 1 tháng 1 năm 2016 đến ngày 17 tháng 11 năm 2021.
Các địa chỉ Ethereum duy nhất (Tổng số + DeFi) giai đoạn 2016 – 2021
Kể từ khoảng đầu năm 2018, tổng số địa chỉ Ethereum duy nhất đã tăng lên đều đặn. Mức tăng trưởng hàng năm trung bình của các địa chỉ Ethereum duy nhất là khoảng 52% kể từ đầu năm 2019 đến nay.
Số lượng các địa chỉ Ethereum có tương tác với các giao thức DeFi cũng đã bùng nổ kể từ năm 2019, với mức tăng trưởng hàng năm xấp xỉ 700%, mặc dù đang hơi chậm lại: từ mức tăng trưởng hàng năm khoảng 875% (từ 2019 đến 2020) xuống còn khoảng 500% (từ 2020 đến 2021).
Hiện tại, chỉ có ~ 2% các địa chỉ Ethereum có tương tác với giao thức DeFi, tuy nhiên con số này vẫn cao hơn gấp hai lần so với số liệu 0,9% vào đầu năm 2021. Có vẻ như vẫn còn rất nhiều tiềm năng phát triển cho các giao thức DeFi.
Các ví NFT hiện đang hoạt động (Mua & Bán) năm 2021
Một proxy khác dùng để theo dõi thị trường tầm trung (submarket) NFT của nền kinh tế Web3 là tổng số ví duy nhất đã mua hoặc bán NFT. Đã có sự gia tăng hàng tháng rõ rệt ở các mức độ khác nhau – ví dụ: tăng trưởng 8% từ tháng 1 đến tháng 2, tăng trưởng 28% từ tháng 2 đến tháng 3, tăng trưởng 10% từ tháng 5 đến tháng 6 và tăng trưởng 35% từ tháng 8 đến tháng 9 .
Nhìn chung, số lượng ví đang hoạt động trên thị trường NFT đã tăng hơn 600% chỉ trong năm nay.
Chúng ta cũng có thể xem số lượng người dùng MetaMask đang hoạt động hàng tháng như một phép đo proxy cho hoạt động trong nền kinh tế Web3. Dưới đây, chúng ta xem qua đồ thị về tài khoản người dùng hoạt động hàng tháng do Consensys cung cấp từ đầu quý 1 năm 2020 đến cuối quý 3 năm 2021.
MetaMask MAUs, 2020-2021
Quan sát kỹ hơn, vào tháng 7 năm 2020, Consensys đã thống kê có 550 nghìn người dùng MetaMask hoạt động hàng tháng. Vào tháng 8 năm 2021, con số đó đã tăng lên trên 10 triệu người dùng, tương đương mức tăng trưởng 1.800% trong khoảng một năm.
Một cái nhìn sơ lược về nền kinh tế Web3 dưới góc độ này sẽ giúp chúng ta hiểu được tin đồn đang lớn dần đằng sau Web3 và sự gia tăng đột ngột trong các dự án hỗ trợ lãi suất đầu tư mạo hiểm liên quan đến những mảng này: từ DeFi đến NFT cho đến game và nhiều hơn thế nữa.
Với xu hướng đi lên trong thời gian dài, chúng ta có thể bắt đầu tin tưởng rằng Web3 thực sự đang bắt đầu củng cố vị thế của mình bên cạnh kiến trúc Web2. Những trải nghiệm người dùng mới này có được nhờ cơ sở dữ liệu phi tập trung, an toàn và bất biến như các blockchain; các cách hợp lý hóa quyền truy cập vào cấu trúc dữ liệu bằng token, trò chơi kinh tế và bằng chứng mật mã hóa; và một loạt các công cụ mới để tạo và phát triển Web3.
(hết phần 6)
Bài viết được Hiền Lê biên tập từ “Digital Asset 2022 Outlook” bởi The Block Research; với mục đích cung cấp thông tin và phi lợi nhuận. Chúng tôi không khuyến nghị đầu tư và không chịu trách nhiệm cho các quyết định đầu tư liên quan đến nội dung bài dịch.
—————————————————
👉 Theo dõi FXCE Ventures
Group Chat | Research Hub | FXCE Spotlight | Tổng hợp airdrop | FXCE Pool Coin