*Bài viết được thành viên Nguyet Hoang (Ca Chua) thuộc FXCE Crypto biên tập từ tài liệu “Compound’s Gateway to the Future” của Will Comyns, với mục đích cung cấp thông tin và phi lợi nhuận. Chúng tôi không khuyến nghị đầu tư và không chịu trách nhiệm cho các quyết định đầu tư liên quan đến nội dung bài dịch.
Vào ngày 17 tháng 12, Compound Labs đã ra mắt whitepaper cho Compound Chain, ngày nay được gọi là Gateway (tham khảo nguồn). Gateway là là một blockchain riêng biệt được dựng trên Substrate và đã được khởi chạy testnet vào ngày 1 tháng 3. Về mặt chức năng, Gateway sẽ hoạt động tương tự như giao thức Compound hiện tại trên Ethereum, ngoại trừ:
- Gateway cung cấp khả năng vay và cho vay bất kỳ tài sản nào từ bất kỳ blockchain nào
- Tiền lãi được kiếm và thanh toán bằng đô la (stablecoin), sử dụng TIỀN MẶT – đơn vị tài khoản gốc của Gateway
- Công cụ rủi ro của Gateway mạnh mẽ hơn; rủi ro dựa trên sự biến động của tài sản bạn sử dụng làm tài sản thế chấp, cũng như tài sản bạn vay – dẫn đến cải thiện hiệu quả sử dụng vốn cho các tài sản ít biến động hơn.
Tổng quan Compound
Compound là một nền tảng cho vay được xây dựng trên Ethereum cho phép người dùng vay hoặc cho vay không cần cấp phép một nhóm tài sản. Lãi suất được xác định theo thuật toán dựa trên tỷ lệ tài sản cho vay thay vì do mỗi cá nhân tự quyết định.
Mục tiêu của Compound là tạo ra thị trường tín dụng mạnh mẽ – thành phần không thể thiếu trong bất kỳ thể chế tài chính nào. Các dịch vụ tài chính tập trung vẫn có thể cung cấp tiện ích này nhưng chúng là những hệ thống hoạt động dựa trên sự tin cậy (trust-based), trái với bản chất phi tập trung của các loại tài sản crypto. Điều này có thể được giải quyết bằng cách tạo ra các giao thức ngang hàng không cần tin cậy (trustless protocol), tuy nhiên, lại yêu cầu sự tham gia phù hợp từ người vay và người cho vay.
Compound sẽ giải quyết vấn đề trên bằng cách tạo ra một mô hình cho vay theo pool cho phép người dùng gửi tiền vào một pool mà người vay sau đó có thể rút tiền với điều kiện phải đủ tài sản thế chấp. Điều này có nghĩa là các khoản vay sẽ không có kỳ hạn và người dùng không cần chờ đợi đối tác vì họ đang tương tác với tất cả người dùng. Compound cho phép người dùng kiếm lãi từ tài sản nắm giữ ngắn hạn đang được định giá cao hoặc sở hữu tài sản cần thiết mà không cần phải mua.
Phân quyền từng bước
Compound ban đầu là một giao thức không token. Compound Labs đơn phương thực hiện các nâng cấp và thay đổi. Giao thức vẫn không bị quản lý nhưng có một thực thể tập trung giữ các đặc quyền quản trị. Để loại bỏ chính đội ngũ phát triển khỏi vị trí này, Compound Labs đã giới thiệu COMP, một token được sử dụng để quản trị giao thức. Sau nhiều giai đoạn, Compound hiện được kiểm soát hoàn toàn bởi các holder COMP token mà không còn đặc quyền nào do Compound Labs nắm giữ.
Nhà tài trợ chính
Các nhà tài trợ chính cho dự án Compound bao gồm
- Abstract Ventures
- Bain Capital
- DHVC
- Dragonfly Capital
- Jump Capital
- Coinbase Ventures
- Paradigm
- Polychain Capital
- Three Arrows Capital
- South Park Commons
- Transmedia Capital
- a16z Crypto
Token Economic
Token Usage
Token Type: ERC-20
Mục đích sử dụng: Biểu quyết
COMP token được sử dụng để đề xuất và bỏ phiếu cho các thay đổi của giao thức. Token không được marketing như một khoản đầu tư, tuy nhiên, nhiều người tin rằng những holder cuối cùng sẽ bỏ phiếu cho cơ chế nắm bắt giá trị nhằm đảm bảo một số yêu cầu về dòng tiền của hệ thống.
Phân phối token
Ban đầu, token được phân phối cho các cổ đông của Compound Labs – những người thử nghiệm vai trò quản trị trong vài tháng. Sau đó, việc phân phối cho người dùng bắt đầu khi phát hành token liên tục trong bốn năm tiếp theo, chia đều giữa người cho vay và người đi vay của các pool khác nhau dựa trên tỷ lệ tổng lãi được trả. Quá trình này, được gọi là khai thác thanh khoản, đã tạo ra sự chú ý đáng kể ở cộng đồng DeFi và tăng tổng giá trị tài sản được khóa (TVL) từ 100 triệu USD lên hơn 600 triệu USD chỉ trong tuần đầu tiên.
Thông tin chi tiết
Tổng cộng 10 triệu COMP đã được mint và phân phối:
- 4.229.949: Người dùng giao thức (trong khoảng thời gian 4 năm)
- 2.396.307: Cổ đông của Compound Labs, Inc.
- 2.226.037: Founder và đội ngũ (4 năm hoạt động)
- 372.707: thành viên tương lai của team
- 775.000 Được phân bố cho cộng đồng để nâng cao năng lực quản trị thông qua các phương tiện khác
Quản trị
Hình thức quản trị: Bỏ phiếu trực tiếp trên chuỗi, bỏ phiếu trên chuỗi thông qua ủy quyền.
Compound được quản trị hoàn toàn trên chuỗi bởi holder Comp theo tỉ lệ 1 token 1 phiếu bầu. Những holder có thể bỏ phiếu trực tiếp hoặc ủy quyền biểu quyết cho một bên khác có khả năng đưa ra quyết định tốt hơn. Các đề xuất bao gồm thêm các tài sản mới, sửa đổi mô hình lãi suất hoặc thay đổi hệ số thế chấp tài sản. Tất cả các hoạt động quản trị đều thông qua Governor Alpha – một module sẽ tiến hành những thay đổi.
Chi tiết về quản trị trên chuỗi
Bất kỳ ai nắm giữ hoặc được ủy quyền tương ứng 1% lượng token của giao thức, đều đủ điều kiện để gửi đề xuất là mã thực thi sẵn sàng đưa vào giao thức. Sau khi đề xuất được gửi, sẽ có thời gian biểu quyết kéo dài 3 ngày để holder hoặc đại biểu bỏ phiếu. Nếu ít nhất 400.000 phiếu được thông qua và đa số đồng ý thì đề xuất sẽ được ban hành sau thời gian 2 ngày.
Background – Nền tảng
Compound là một giao thức hàng đầu trong thị trường protocols và là một sự tiên phong trong việc khai thác thanh khoản – một cơ chế đã khởi động cho sự bùng nổ của DeFi trong những năm qua. Nó cho phép người dùng cho vay và vay tài sản từ một nhóm tài sản thế chấp và đặt lãi suất theo thuật toán bằng cách sử dụng mô hình lãi suất dựa trên cung và cầu. Tỷ lệ sử dụng U cho mỗi thị trường thống nhất cung và cầu thành một biến duy nhất như sau:
Lãi suất vay sau đó được tính dựa trên tỷ lệ sử dụng thị trường. Một ví dụ chung cho một thị trường tiền tệ nhất định được tính bằng công thức sau:
Mặc dù có nhiều tài nguyên DeFi phổ biến có xu hướng phân loại các giao thức như Compound, Aave hay MakerDAO là giao thức “cho vay”, nhưng sẽ chính xác hơn nếu gọi chúng là giao thức “lãi suất”. Khác với cho vay truyền thống, Compound tổng hợp các khoản cho vay để đảm bảo rằng nếu người đi vay không trả lại được khoản vay của họ, thì giao thức vẫn có khả năng thanh toán. Và kết quả là, sẽ không cần phải có thẩm định bảo hiểm, không tạo ra tín dụng, và không phải có nghĩa vụ pháp lý thực sự. . Mặc dù các giao thức này không phản ánh hoạt động cho vay truyền thống, nhưng chúng được chứng minh phổ biến rộng rãi và đáp ứng nhu cầu không thể tranh cãi trong hệ sinh thái tài chính phi tập trung.
Cross-Chain cho vay và đi vay
Gateway là một blockchain độc lập có toàn bộ kiến trúc được xây dựng dựa trên khả năng tương tác chuỗi chéo và trong rất nhiều cách, có thể cung cấp chức năng tương tự THORChain. Người dùng Gateway có thể tải lên các tài sản được hỗ trợ từ nhiều blockchain độc lập thông qua hệ thống các chuỗi “ngang hàng” đã được kết nối. Có 1 loại hợp đồng được gọi là “starport” đã được liên kết với các chuỗi ngang hàng cho phép khóa và mở khóa tài sản trên Gateway.
Một khi đã tải lên Gateway, người dùng có thể cho vay hoặc vay tài sản giữa các blockchains khác nhau. Họ có thể vay tài sản Ethereum vào ví Ethereum của họ bằng tài sản Solana hoặc vay tài sản Celo vào ví Celo của họ bằng tài sản Polkadot, v.v.
Ditch the Wrapping – Xóa bỏ lớp bọc
Mục tiêu chính của blockchain Gateway là làm cho các blockchains tương tác trực tiếp với nhau mà không cần token wrapping.Mặc dù có thể wrap bitcoin, nhưng chưa đến1% Bitcoin hiện đã được chuyển sang Ethereum do vấn đề làm cầu nối không đáng tin cậy giữa Bitcoin với chuỗi khối Ethereum (xem thêm). Nếu Bitcoin có vốn hóa thị trường hơn 1 nghìn tỷ đô la, bất kể cách nào để làm tăng quyền truy cập của Bitcoin vào DeFi đều vô cùng quan trọng.
Để wrap token , người dùng DeFi cần phải thông qua bên trung gian thứ ba như BitGo hoặc Ren, nhưng làm như vậy sẽ mất quyền kiểm soát các khóa riêng tư của họ. Gateway đã cung cấp một giải pháp độc quyền, cho phép người dùng Bitcoin tương tác với các chuỗi khác mà không cần phụ thuộc vào bên thứ ba. Nhu cầu về Bitcoin trên Ethereum đã được chứng minh bởi sự phổ biến của WBTC, nhưng quan điểm cho rằng Bitcoin có thể được bắc cầu trong chuỗi chéo- theo cách không giám sát, rất có thể sẽ thu hút những người theo chủ nghĩa tối đa Bitcoin.
Giải pháp chuỗi chéo – Không mở rộng:
Compound có thể giảm gas fee của Ethereum bằng cách chuyển sang Gateway, nhưng Gateway là một công cụ chuỗi chéo, không phải là một công cụ mở rộng quy mô. Trong khi đó trái lại, hầu hết các dự án DeFi quan trọng khác đều đang áp dụng giải pháp mở rộng L2 thay vì các giải pháp tương tác chuỗi chéo (tham khảo nguồn).
Vào ngày 31 tháng 3, Aave thông báo rằng nó sẽ mở rộng quy mô với Polygon, một sidechain của Ethereum. Kể từ khi Polygon ra mắt trên Aave, trong tuần ngày 18 tháng 4, Aave đã chứng kiến sự bùng nổ về TVL, giờ đã vượt qua Compound.
Mặc dù Compound có tầm nhìn rộng lớn về tương lai chuỗi chéo, nhưng chỉ khi Gateway ra mắt thì nó mới rõ ràng liệu việc xây dựng một blockchain hoàn toàn mới có xứng đáng không so với việc áp dụng giải pháp L2 như các giao thức chính khác.
Một điều có hiệu quả khi Compound chọn tập trung vào việc bắc cầu chuỗi chéo qua việc mở rộng quy mô L2 trên Ethereum, đó là hiện tại đang thiếu sự đồng thuận về một giải pháp mở rộng quy mô L2 duy nhất.
Mặc dù Aave có thể đang sử dụng Polygon- DEX lớn nhất trên Ethereum, Uniswap đã chọn mở rộng quy mô trên Optimism trong bản nâng cấp V3 mới nhất của họ. Nếu hai DApp đã chọn hai giải pháp mở rộng L2 khác nhau, chúng có thể không kết hợp được với nhau.
Truy cập chuỗi chéo Stablecoin
Sự thành công của Compound bắt nguồn từ nhu cầu stablecoin một cách không cân xứng. Trong tháng 4, gần 90% doanh thu của Compound đến từ nhu cầu stablecoin trong khi chỉ một phần doanh thu đến từ các tài sản dựa trên Ethereum khác có sẵn trên giao thức. Điều này chủ yếu là do stablecoin là tài sản phổ biến nhất để cho vay và đi vay.
Mặc dù phần lớn các stablecoin sống trên mạng lưới Ethereum (gần 70% tính đến cuối tháng 1), phần lớn Tether hiện sống bằng Tron do gas fee cao không bền vững của Ethereum. Các blockchain như Polkadot và Solana sẽ có sẵn trên Gateway trong thời gian ngắn, nhưng các chuỗi như Tron cuối cùng cũng sẽ theo sau. Tính đến ngày 30 tháng 4, tổng nguồn cung cấp stablecoin hiện đang ở mức $ 80 tỷ đô la và có xu hướng không ngừng tăng lên. Do mạng lưới của Tron gần như chiếm toàn bộ thị trường stablecoin, chỉ sau Ethereum, một starport của Tron có thể mang lại cho compound lợi thế đáng kể so với các đối thủ như Aave.
CASH
Cash là đơn vị tài khoản gốc của Gateway và được sử dụng để thanh toán phí giao dịch. Nó được tạo ra thông qua vay mượn, giống như Dai của MakerDAO. Số CASH đang lưu thông sẽ luôn bằng số CASH nợ. CASH ban đầu sẽ được cài đặt là một đô la Mỹ, nhưng sau đó có thể thay đổi theo một chỉ số thay thế thông qua quyết định quản trị.Ngoài chức năng phục vụ bảo mật cho Gateway, CASH cũng có tiềm năng trở thành đối thủ nặng ký với DAI và USDC.
Tất cả CASH mà do người dùng và người xác thực nắm giữ sẽ kiếm được lãi suất kép liên tục (Lợi tức) tăng lên thông qua chỉ số lãi suất.
Điều này được tính toán lại mỗi khi lãi suất thay đổi, khi mà người dùng / người xác nhận rút tiền, mua lại, vay, hoàn trả hoặc thanh lý CASH.
Chi phí để vay CASH luôn phải lớn hơn hoặc bằng lãi suất để đảm bảo CASH không bao giờ được vay và giữ một cách không hiệu quả.
Khoản nợ bằng CASH tăng theo chỉ số đi vay (Chi phí) được tính như sau:
Đồng thuận và quản trị
Không giống như Ethereum, Gateway hoạt động như một mạng proof-of-Authority (PoA), được vận hành bởi các trình xác thực được phê duyệt bởi quản trị Compound.Người xác thực trong mạng PoA được chọn dựa trên danh tiếng và sự tin cậy.
Sự đồng thuận khối hoạt động chính xác với tối đa giới hạn ⅓ nút bị lỗi và quá trình hoàn thiện khối xảy ra khi ít nhất ⅔ nút đồng ý rằng một khối là một phần của chuỗi.
Người xác thực thu được một phần lãi suất mà người vay CASH trả (Spread) cho mỗi khối mà họ tạo ra cũng như phí giao dịch chuyển tài sản. Có khả năng phí xác thực sẽ trở thành đối tượng để chia sẻ doanh thu với chủ sở hữu token COMP (xem thêm thông tin).
Một POA blockchain có thể rất có lợi cho Gateway vì nó cho phép các tổ chức như ngân hàng và sàn giao dịch tập trung để trở thành người xác nhận.
Xem xét cách một trong những trọng tâm chính của Gateway đang chuẩn bị cho việc áp dụng các loại tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (và bằng cách mở rộng các stablecoin do các ngân hàng đầu tư tạo ra), các tổ chức này có thể được khuyến khích trở thành người xác thực.
Tuy nhiên, vẫn còn một vấn đề quan trọng nảy sinh với mạng PoA là nó làm tăng tính tập trung. Nếu cuối cùng cộng đồng COMP quyết định rằng cơ chế đồng thuận PoA không phải là tốt nhất cho blockchain do sự gia tăng tập trung, họ có thể bỏ phiếu để thay đổi nó sang một cơ chế khác, chẳng hạn như PoS thông qua một quyết định quản trị. Nhưng trong tương lai gần, Gateway sẽ được tập trung hóa.
Chủ sở hữu token COMP sẽ quản lý Gateway thông qua hệ thống Compound Governance trên Ethereum. Hệ thống này sẽ chuyển tiếp các hành động quản trị đến STARPORT Ethereum nơi các trình xác thực của Gateway nhận được hướng dẫn. Điều này có khả năng tạo ra các điều kiện ban đầu và cập nhật bộ xác thực ban đầu, tài sản được hỗ trợ, giới hạn nguồn cung, các yếu tố tài sản thế chấp và lãi suất Cash.
Mặc dù Gateway ban đầu sẽ là một blockchain đặc biệt cho mục đích tạo ra một thị trường lợi ích chuỗi chéo, nhưng khi nó đi vào hoạt động, cộng đồng COMP có thể chọn tích hợp các DApp khác như DEX trên blockchain. Nhìn chung, khả năng quản lý Gateway sẽ dẫn đến sự gia tăng đáng kể quyền lực của chủ sở hữu mã thông báo COMP.
Kết luận
Compound là một trong những giao thức lãi suất quan trọng và được chứng minh là có những bước tiến triển lớn. Với việc tập trung vào khả năng tương tác chuỗi chéo, Gateway có tiềm năng cách mạng hóa hoạt động vay và cho vay xuyên chuỗi. Thông qua việc bổ sung starports, CASH và blockchain PoA mới sẽ được quản lý bởi chủ sở hữu token COMP, Gateway cũng giới thiệu Compound ra các thị trường hoàn toàn mới ngoài “cho vay” như cầu nối xuyên chuỗi và phát hành stablecoin. Một khi Compound truy cập vào mainnet, hãy để thời gian trả lời liệu Gateway có thể thực thi theo tầm nhìn của nó hay không?