Tiêu điểm chính
- Sự phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng tập trung tạo ra những điểm thất bại khác nhau và làm suy giảm tính phi tập trung.
- Pocket Network giải quyết vấn đề truy cập của Web3 với mạng lưới các node chống kiểm duyệt, không có downtime và chi phí chìm cho các ứng dụng.
- Pocket được thiết kế để tạo điều kiện cho một tương lai multichain, tích hợp với hơn 40 blockchain và dịch vụ relay đang phát triển nhanh chóng hằng ngày (tăng 52 lần so với cùng kỳ năm ngoái) và số lượng service node (tăng 24 lần so với cùng kỳ năm ngoái).
- Mặc dù Pocket có sự lạm phát cao, việc trả thưởng tuyến tính với khối lượng trong dịch vụ relay đã dẫn đến tổng cung POKT tăng 30% trong ba tháng. Những lo ngại về sự pha loãng liên quan đến stakeholder đã thúc đẩy DAO kiềm chế lạm phát.
- Bản nâng cấp lớn V1 sắp tới của Pocket là một bước tiến quan trọng đối với một mạng có khả năng mở rộng cao, được trang bị chất lượng dịch vụ cấp doanh nghiệp (enterprise-grade).
Sự gia tăng gần đây của Web3 là tâm điểm thu hút sự chú ý khá lớn đối với các nhà đầu tư nhanh nhạy. Cả những người xây dựng và những người hoài nghi tập trung xung quanh sức nóng của Web3 và bắt đầu tham gia vào chủ đề.
Với sự biến động thị trường gần đây, các nhà xây dựng trở thành ngôi sao dẫn lối cho nhà đầu tư. Một khi được coi là những ngôi sao, các nhà xây dựng dần thu hút sự chú ý của những người hoài nghi, như thể đây là lúc cho họ tỏa sáng.
Do phạm vi chủ đề rộng lớn, nên hầu hết những lời phê bình đều nhắm vào một số vấn đề cụ thể, về sự không hoàn toàn phi tập trung của các mạng blockchain dẫn đầu.
Sự đánh đổi ở cơ sở hạ tầng Web3 hiện nay
Những nhà phê bình thường mô tả các mạng này được xây dựng dựa trên ảo tưởng về sự phi tập trung. Họ chỉ ra rằng hash rate chỉ được tích lũy vào một số mining pool và các nền tảng hợp đồng thông minh phụ thuộc quá nhiều vào các nhà cung cấp cơ sở hạ tầng tư nhân, điều này có thể trở thành điểm thất bại vì tính tập trung.
Mặc dù những lời chỉ trích về vấn đề bản chất không hoàn toàn trustless là có giá trị, nhưng mọi thứ thường mang nhiều sắc thái, nhất là trên thị trường. Khi các ứng dụng được tối ưu hóa để đạt hiệu quả chi phí, họ thường chọn đánh đổi sự tập trung hóa, đặc biệt là khi chi phí lớn hơn lợi ích của việc phi tập trung một cách đáng kể.
Trên hết, cơ sở hạ tầng tập trung cung cấp dịch vụ chất lượng cao, khiến chúng trở thành lựa chọn ưu việt trên nhiều phương diện.
Như một phương tiện để đạt được mục đích, sự phi tập trung có khả năng không phải là lựa chọn thiết kế có thể mở rộng. Để thoát khỏi cơ sở hạ tầng tập trung sẽ yêu cầu các giải pháp phân tán với chất lượng dịch vụ cấp doanh nghiệp. Chất lượng, chi phí và phi tập trung là ba yếu tố quan trọng nhất mà các nhà cung cấp cơ sở hạ tầng Web3 cần thực hiện để có cơ hội được áp dụng rộng rãi.
Pocket Network là gì?
Pocket Network, một công cụ điều phối full-node. Pocket cố gắng trở thành giải pháp truy cập phi tập trung hàng đầu bằng cách giải quyết đồng thời ba yếu tố: dịch vụ xử lý RPC chống kiểm duyệt, không có downtime (thời gian ngừng hoạt động) và chi phí chìm.
Pocket Network nhằm mục đích phá vỡ một bước cụ thể trong một giao dịch blockchain thông thường. Ví dụ: trong một giao dịch Ethereum, hợp đồng thông minh chứa đầy các logic, tương thích với Ethereum Virtual Machine (EVM).
Bất cứ khi nào tương tác với hợp đồng, trước tiên người dùng cần gửi yêu cầu của họ đến một full node Ethereum được trang bị EVM. Full node này có thể là node cục bộ hoặc node bên ngoài. Nếu người dùng chạy một full node cục bộ, họ có thể đọc dữ liệu chain cũng như xác thực giao dịch để phát tới mạng mà không cần trình kết nối bên ngoài.
Tuy nhiên, chạy một full node là hoạt động tốn kém và không hiệu quả, bị hạn chế bởi các vấn đề về hiệu suất như downtime và độ trễ cao. Thay vì đảm nhận hoạt động, các ứng dụng tham chiếu đến service nodes để thu thập dữ liệu chain và xử lý các giao dịch.
Nguồn: BlockChannel
Để truy cập vào một máy chủ, hoặc trong trường hợp này là truy cập vào một blockchain thông qua một node bên ngoài, yêu cầu người dùng phải xác định một điểm tương tác đầu tiên (first interaction point).
Ai sẽ cung cấp thông tin về trạng thái chain? Ai sẽ thực hiện yêu cầu giao dịch đầu tiên trong trường hợp có yêu cầu? Node nào sẽ đóng vai trò điều chỉnh và xem liệu giao dịch đã gửi có hợp lệ hay không trước khi đưa vào chain? Điểm tương tác không nằm trong cục bộ (non-local interaction point) đầu tiên được xác định bằng cách sử dụng RPC, một API cho phép ứng dụng gửi yêu cầu đến một full node cụ thể thông qua URL.
Mọi tương tác, bao gồm cả giao dịch thay đổi trạng thái và các yêu cầu thông tin, đều liên quan đến đường dẫn. Khi người dùng thực hiện một hành động cụ thể trên ví, sẽ kích hoạt một lệnh gọi (call), dẫn đến một yêu cầu API được chuyển đến một full node.
Ví dụ: Metamask chọn Infura làm nhà cung cấp RPC endpoint mặc định của họ. Nếu người dùng muốn gửi tiền đến một địa chỉ khác hoặc kiểm tra số dư token trong ví, Metamask sẽ chuyển yêu cầu đến các node do Infura vận hành.
Việc thiếu một giải pháp thay thế phi tập trung được phát triển tốt trước khi Pocket Network khiến các ứng dụng phụ thuộc rất nhiều vào các nhà cung cấp node tập trung như Infura và Alchemy. Việc tập trung hóa các gateway làm cho mạng dễ mắc phải các lỗi riêng lẻ vì downtime và mối đe dọa từ sự kiểm duyệt. Một trường hợp kiểm duyệt mới xảy ra với Infura và Metamask đã vô tình chặn các giao dịch có nguồn gốc từ Venezuela.
Giao thức RPC phi tập trung của Pocket Network được thiết kế để khắc phục những loại vấn đề này với mạng full-node phân tán được thiết kế để dự phòng. Trái ngược với các công ty tập trung hiện tại bị tắc nghẽn hoạt động khi mở rộng, Pocket Network được giảm bớt gánh nặng khi điều hành các node riêng, hoạt động tương tự như các marketplace nổi tiếng như Uber và Airbnb.
Là một mạng trung gian cung cấp sự điều phối, Pocket có thể vẫn là chain agnostic, hoạt động như một L0 mặc dù là L1, và nhanh chóng mở rộng các dịch vụ thành các chain mới. Cho đến nay, mạng đã thu hút 34.000 service node (và còn tiếp tục tăng) khi mở rộng lên hơn 40 mạng trong một khoảng thời gian ngắn. Do đó, Pocket đã trở thành một trong những nhà cung cấp cơ sở hạ tầng phi tập trung phát triển nhanh nhất trong không gian.
Cách Pocket Network kết nối nhiều blockchain
Về cơ bản, thiết kế của Pocket Network V0 giống với cây thần Yggdrasil, nhiều tích hợp mạng tiếp cận với thế giới blockchain như các nhánh, nuôi dưỡng chúng với thông tin cần thiết. Trong đó, dịch vụ dựa trên ba thành phần giống như ba gốc rễ của Yggdrasil: ứng dụng, node và layer mạng.
Trong hệ sinh thái Pocket, các ứng dụng là các agent hoạt động trên các giao thức hợp đồng thông minh như Ethereum và Harmony. Chúng tìm kiếm các dịch vụ xử lý yêu cầu API từ hệ thống node phân tán của Pocket, tạo thành nhu cầu mạng. Về phía nguồn cung của thị trường, có hai loại node đảm bảo đáp ứng nhu cầu bridge thông tin của các ứng dụng: service node và validator node.
Bất kỳ ai tải xuống lịch sử chain đều có thể khởi chạy một full node và kết nối các ứng dụng với relay handler (trình xử lý chuyển tiếp) cũng như có thể bảo mật mạng. Tuy nhiên, Pocket yêu cầu các node stake ít nhất 15.000 POKT để đủ điều kiện xử lý các yêu cầu API của ứng dụng, và do đó, thực hiện phân tán thông tin liên chain.
Các relay handler là các service node nằm giữa Pocket Network và blockchain bên ngoài, thực hiện phần thiết yếu của magic mạng bằng cách khởi chạy một full node trong Pocket và ít nhất một RelayChain node (một full node trên các mạng được tích hợp) để kết nối các ứng dụng với các mạng bên ngoài.
Trong số các service node, 1000 node hàng đầu tính theo số lượng stake có thể trở thành validator nodes. Validators kiểm tra xem service nodes có xử lý các relay và forging block với các giao dịch hợp lệ hay không thông qua việc triển khai Tendermint PoS của Pocket.
Thành phần thứ ba, layer mạng, là một tập hợp các quy tắc nằm bên dưới, điều phối các hoạt động quan trọng như ứng dụng điều phối service node, cơ chế thưởng và phạt, cũng như giải quyết tranh chấp.
Giao dịch trong thế giới thực
Mặc dù các ứng dụng là người dùng chính của Pocket Network, nhưng những người lữ hành Web3 thường xuyên cũng có thể trải nghiệm cách thức hoạt động của TCP/IP cơ sở hạ tầng node Web3 bằng cách thay đổi Metamask RPC route thành các public node của Pocket.
Các ứng dụng tham khảo trang web Portal của Pocket khi có nhu cầu về RPC endpoint, hiện là điểm truy cập duy nhất cho các ứng dụng. Tích hợp trực tiếp và chống kiểm duyệt thông qua PocketJS sẽ được kích hoạt với tính năng stake permissionless trong ứng dụng.
Trái ngược với mô hình thanh toán dựa trên việc đăng ký của các nhà cung cấp tập trung, Pocket Network không yêu cầu các ứng dụng thanh toán trực tiếp để mint ra một RPC endpoint riêng. Thay vào đó, họ áp dụng mô hình stake-to-use yêu cầu người dùng stake POKT để truy cập dịch vụ.
Các ứng dụng có thể lựa chọn giữa đăng ký free tier hoặc đăng ký dựa trên số lượng stake. Tùy chọn free tier của Pocket phục vụ số lượng relay tương tự như gói đăng ký 225 USD/tháng của Infura: 1 triệu relay/ngày. Các ứng dụng có thể đăng ký free tier hoặc preferential tier, họ có thể stake POKT và hưởng lợi từ các dịch vụ relay bổ sung tỷ lệ vào khoản stake (khoảng 130 relay/POKT tại thời điểm viết bài).
Tuy nhiên, việc stake trong ứng dụng sẽ không permissionless cho đến khi bản nâng cấp V1 của giao thức được triển khai để đảm bảo sự mở rộng bền vững và dịch vụ chất lượng cao. Vì stake trong ứng dụng vẫn sẽ bị giới hạn số lượng stake (hiện tại là 2.298) với Portal có thể chia sẻ khoản stake giữa nhiều ứng dụng, hầu hết các ứng dụng đăng ký free tier và để Pocket Foundation trang trải chi phí đầu vào.
Bảng điều khiển truy cập Portal của Pocket được trang bị các công cụ để hỗ trợ chất lượng dịch vụ. Trước khi kết nối các ứng dụng với service nodes, nó khởi chạy kiểm tra đồng bộ hóa và Cherry Picker để đảm bảo các node được đồng bộ hóa với trạng thái hiện tại của chain và hoạt động với độ trễ thấp.
Khi các ứng dụng bắt đầu sử dụng URL riêng để gửi thông tin đến một non-native chain (ví dụ: yêu cầu xem tổng số tiền gửi trong pool cho vay của Aave), một full node của Pocket gửi yêu cầu relay tới mạng và bắt đầu một session với service nodes.
Sessions là cấu trúc dữ liệu được cập nhật thường xuyên để chỉ định service node nào xử lý các yêu cầu relay của ứng dụng trong khoảng thời gian đã xác định trước.
Hiện tại, một ứng dụng được kết nối với 24 service node trong một session và dịch vụ relay tiếp tục trong bốn block của Pocket trước khi bị đảo ngược. 24 node giống nhau thường phục vụ một ứng dụng trong khoảng một giờ trước khi session mới bắt đầu và ứng dụng được ghép nối với một nhóm node mới.
Nguồn: Pocket Network
Service nodes route các yêu cầu relay đến và đi từ non-native chain, và theo dõi số lượng relay được vận chuyển. Sau khi session hoàn tất, chúng được xếp lại theo lô và gửi dưới dạng proof-of-relay đến Finality Storage. Validator nodes kiểm tra tính hợp lệ của các proof để xem liệu service nodes có thực sự cung cấp dịch vụ hay không. Sau đó, chúng forge các block trong Pocket với các giao dịch hợp lệ.
Khi kết thúc quá trình sản xuất block, nếu các relay hợp lệ và ứng dụng không yêu cầu Challenge Transaction để thách thức proof-of-relay, mạng sẽ mint các token tỷ lệ với khối lượng relay (hiện tại là 0,00843 POKT/relay). Reward pool được phân phối giữa các facilitator như:
- Service Nodes: 89% số lượng POKT được mint
- Pocket DAO: 10%
- Validator Nodes: 1%
Service nodes sẽ nhận phần thưởng lớn nhất. Kết hợp hình thức generalized mining tận dụng POKT như một đơn vị với tiềm năng sinh lời hấp dẫn cho service nodes, mạng đã khá thành công trong việc xây dựng nguồn cung. Điều này dẫn đến mức tăng trưởng gấp khoảng 24 lần so với cùng kỳ năm trước, hiện đang ở mức hơn 34.500.
Thêm nữa là downtime bằng 0, không có chi phí chìm và cung cấp dịch vụ chống kiểm duyệt, cũng như tùy chọn free tier hấp dẫn của Pocket. Tất cả những điều này đã giúp mạng đáp ứng nhu cầu thị trường.
Hiện tại, giao thức xử lý trung bình hơn 200 triệu relay mỗi ngày, cho thấy mức tăng khoảng 52 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Sự gia tăng đáng kể về lượng relay trung bình hàng ngày theo sau việc tích hợp của Pocket Network với Harmony vào tháng 10 năm 2021.
Khi người dùng Harmony gặp sự cố với nhà cung cấp RPC mặc định và chuyển sang Pocket để giảm bớt những vấn đề, Pocket đã có được một lượng lưu lượng mạng đáng kể ngay sau khi tích hợp. Tính đến ngày hôm nay, khoảng 150 triệu trong số hơn 200 triệu relay hàng ngày bắt nguồn từ Harmony network.
Vào năm 2021, mạng này đã phục vụ 6,4 tỷ relay cho Harmony, tiếp theo là Ethereum với 3,7 tỷ. Mặc dù những con số này có vẻ hơi nhỏ so với 12 tỷ lệnh gọi hàng ngày vào năm 2019 và 2 tỷ eth_call hàng ngày vào năm 2020 của Infura, nhưng sự phát triển của Pocket Network vẫn đáng được chú ý.
Mất mười tháng để Pocket đạt được cột mốc 1 tỷ relay tích lũy đầu tiên và chỉ trong sáu tháng tiếp theo, họ đã xử lý số lượng relay tương tự trong vòng chưa đầy một tuần.
Tokeneconomics và Cơ chế phần thưởng
Năng lực kỹ thuật của chain có mối quan hệ gần gũi với mô hình kinh tế. Cả hai cần phải phát triển đồng thời nhằm cho phép việc điều phối diễn ra thành công.
Cộng đồng quan tâm về sự bền vững của tokeneconomic mang tính lạm phát cao, vòng đời nền kinh tế của giao thức được chia thành ba giai đoạn, trong đó cơ chế khuyến khích POKT được hiệu chỉnh để đạt tăng trưởng nhanh trước tiên và sau đó chuyển sang một nền kinh tế bền vững hơn.
Sau khi thiết lập một nguồn cung vững chắc trong Bootstrapping Phase (giai đoạn khởi động), giao thức hiện đang trong Growth Phase (giai đoạn tăng trưởng), nơi tỷ lệ lạm phát cao là nội tại của chiến lược mở rộng.
Tương tự như cách Pool 2 thu hút thanh khoản trong DeFi, Growth Phase của mô hình tokeneconomics xoay quanh economic flywheel, trong đó mức APR cao của token gốc thu hút thanh khoản cho dịch vụ, từ đó tăng tốc độ tăng trưởng về năng lực dịch vụ relay và tích hợp mạng.
Khi mức tăng lạm phát cao hơn mức tăng của tổng nguồn cung stake POKT và khi giá POKT tăng bền vững, Pocket DAO sẽ bắt đầu Maturity Phase (giai đoạn trưởng thành).
Maturity Phase
Nhìn chung, tokeneconomics của POKT được thiết kế để thu hút những người tham gia dài hạn và giảm bớt sự đầu cơ không mang đến lợi ích cho dự án. Tầm nhìn này được hiện thực hóa trong hai trường hợp: bí mật loại bỏ những người không tham gia nắm giữ token khỏi mạng do tỷ lệ lạm phát cao và tách quyền quản trị khỏi quyền nắm giữ token thông qua merit-based vote claim (yêu cầu bỏ phiếu dựa trên thành tích).
Tuy nhiên, áp lực lạm phát ngày càng tăng giữa các token đã stake với việc tăng cường áp dụng mạng, do các nhà cung cấp node được trả công bằng các token mới được mint cho dịch vụ relay. Sự gia tăng nhanh chóng trong tổng nguồn cung token làm lu mờ mô hình thanh toán low-cost stake-to-use của Pocket với chi phí pha loãng không đáng kể.
Do giới hạn triển khai giao thức trên các ứng dụng stake, sự chênh lệch giữa nhu cầu thực tế và tổng cung tăng lên khiến việc giá tăng do đầu cơ vẫn cần thiết để khắc phục sự chênh lệch đầy biến động, duy trì sự phát triển của mạng lưới.
Để đưa ra một ví dụ cụ thể, tổng nguồn cung POKT đã tăng từ 660 triệu lên 960 triệu trong sáu tháng qua, pha loãng đáng kể bất kỳ khoản stake qua ứng dụng nào. Tuy nhiên, lạm phát tỷ lệ thuận với sự gia tăng số lượng relay.
Do đó, việc gia tăng relay trung bình hàng ngày kết hợp với việc tăng giá mang tính đầu cơ đã bù đắp ảnh hưởng của sự pha loãng với sự gia tăng giá trị mạng tổng thể, biến bất kỳ chi phí trả trước nào được thực hiện thành lợi nhuận kế toán tăng gấp 2 lần.
Nói cách khác, nhu cầu thị trường mang lại ROI dương cho những người dùng đầu tiên. Tuy nhiên, sau khi chứng kiến đà tăng trưởng theo cấp số nhân trong vài tháng qua, sự chênh lệch giữa cung và cầu đã trở nên rõ ràng hơn.
Cộng đồng đã hành động nhanh chóng và thông qua hai đề xuất gần đây để thực hiện một cơ chế lạm phát bền vững hơn. Bằng cách áp dụng lạm phát giảm dần, nhằm mục đích ổn định động lực mạng và giới thiệu biện pháp bảo vệ cho các stakeholder trong mạng trước khi bắt đầu đốt token.
Khi áp lực lạm phát trong việc mint token tuyến tính của Pocket gây ảnh hưởng đến tokenholders không tham gia vào quá trình mở rộng mạng nhanh chóng, các nhà đầu cơ POKT đã tìm cách tạo thu nhập bằng token của họ.
Giải pháp phổ biến nhất là tài trợ node, trong đó holder POKT phân bổ token cho những người khởi chạy node để được chia sẻ dịch vụ. Dịch vụ này chỉ có thể được truy cập thông qua các dịch vụ lưu ký. Hơn nữa, số lượng POKT đã stake không ảnh hưởng đến cơ hội lựa chọn cho một session, dẫn đến các nhà vận hành service node phân phối POKT theo chiến lược đến nhiều ví và tối đa hóa số lượng ví đủ điều kiện.
Cả hai hiện tượng này đều có tác động to lớn đến nguồn cung, do đó ảnh hưởng đến các đánh giá về sự tăng trưởng nguồn cung. Mặc dù sự tăng trưởng ADR/ASN của Pocket cho thấy rằng mạng đã cân bằng việc áp dụng vào năm ngoái, nhưng phần lớn năng lực xử lý relay vẫn chưa được sử dụng hết.
Gần đây, sự tăng trưởng của nguồn cung bắt đầu vượt xa nhu cầu, có nghĩa là lợi nhuận trung bình của node đã giảm đáng kể từ mức đỉnh vào ngày 7 tháng 1 năm 2022.
Bản nâng cấp V1
Cho đến gần đây, một rào cản lớn đối với các ứng dụng là độ trễ cao của mạng so với các giải pháp tập trung. Tuy nhiên, Pocket đã giải quyết được vấn đề này và đạt được độ trễ cạnh tranh bằng cách tăng số lượng node trong một session từ 5 lên 24 và cải thiện độ trễ.
Nguồn: Thử nghiệm nội bộ do đội ngũ Pocket Network thực hiện.
Trên hết, đội ngũ Pocket tập trung vào việc cải thiện chất lượng dịch vụ với bản nâng cấp lớn V1 của họ. Quá trình chuyển đổi sang V1 sẽ bao gồm các thay đổi, Pocket Network chuẩn bị mở rộng các dịch vụ relay theo cấp độ quan trọng. Nhằm mục đích giảm thêm độ trễ và tăng cường mạng theo nhiều cách với một kiến trúc chain mới.
Dự kiến sẽ không ra mắt cho đến ít nhất là năm sau, bản nâng cấp sẽ cung cấp các cơ chế thiết kế mới trên bốn mô-đun khác nhau của chain: tiện ích, đồng thuận, peer-to-peer (ngang hàng) và bền vững.
Vì Pocket Network phải duy trì chất lượng dịch vụ ngang bằng với các đối thủ cạnh tranh tập trung, họ có ý định kết hợp các cải tiến lớn đối với cơ chế khuyến khích và giám sát để tối ưu hóa mạng hơn nữa nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ.
Bổ sung network agent mới là một thay đổi lớn. Việc sử dụng kém hiệu quả các thách thức proof-of-relay (Tính năng thử thách phía khách hàng) và sự bất tiện trong phương pháp tiếp cận fail-first-correct-later đã thúc đẩy Pocket giới thiệu một agent mới trong V1 là fisherman. Được cải trang thành một ứng dụng, agent mới này sẽ đóng vai trò người kiểm tra và chấm điểm các node về tính khả dụng, độ trễ và tính nhất quán trong các dịch vụ.
Pocket V1 cũng sẽ kết hợp cơ chế phần thưởng tập trung vào chất lượng. Trong V0, Cherry Picker đã xếp hạng các node theo độ trễ và đảm bảo rằng những node có độ trễ cao sẽ có ít cơ hội để phục vụ hơn. Giống như bộ lọc Cherry Picker, cơ chế mới này sẽ phân phối phần thưởng relay không theo khối lượng relay cá nhân mà theo điểm kiểm tra do fishermen cung cấp.
Vì việc mở rộng quy mô để xử lý hàng nghìn tỷ relay đòi hỏi phải có cơ sở hạ tầng mạnh mẽ, Pocket V1 sẽ tập trung vào việc đảm bảo mạng sẵn sàng mở rộng trên mọi phương diện. Hiện tại, Tendermint BFT yêu cầu sự giao tiếp rộng rãi giữa các node, điều này gây ra tắc nghẽn trong việc mở rộng số lượng node.
Trong V1, giao thức sẽ áp dụng triển khai HotStuff BFT. Đồng thời giới thiệu cách giao tiếp chuyên biệt và phương pháp phân tán tin nhắn hiệu quả **.** Việc chuyển đổi từ random gossip của Tendermint BFT sang structured gossip dự kiến sẽ giúp sử dụng băng thông thấp hơn và hiệu quả mạng cao hơn.
Việc giới thiệu các fishermen để kiểm tra chất lượng cũng sẽ giúp mở rộng mạng. Sử dụng các agent mới, mạng sẽ có thể sửa đổi thiết kế giao thức để đáp ứng vai trò rõ ràng hơn cho các node. Gần đây, giao thức đã tách các tác vụ giữa validator node và các service node để đảm bảo chúng ít bị ràng buộc bởi các yêu cầu của nhau hơn.
V1 nhằm mục đích nỗ lực tăng tính năng chuyên môn hóa bằng cách loại bỏ trách nhiệm theo dõi các relay proof của service node nhờ vào fishermen. Do đó, mạng sẽ thực hiện các yêu cầu giải quyết trách nhiệm của service nodes và cho phép chúng phân bổ tài nguyên để tăng hiệu quả mạng.
V0 cho phép các nhà phát triển truy cập các dịch vụ xử lý RPC mà không có downtime và chi phí chìm của mô hình thanh toán dựa trên việc đăng ký. V1 sẽ chủ yếu tập trung vào nỗ lực tăng các đề xuất giá trị hiện tại thay vì mở rộng phạm vi hoạt động.
Vì tính năng stake permissionless thông qua ứng dụng và thiết kế tối ưu cho khả năng mở rộng sẽ không được tung ra cho đến khi V1 ra mắt, tiềm năng thực sự của mạng vẫn chưa được khám phá cho đến khi bản nâng cấp quan trọng khởi chạy.
Kết luận
Có ý kiến cho rằng trạng thái permission hiện tại của Portal là một dấu hiệu cho thấy sự phi tập trung giả mạo. Cũng có ý kiến tranh luận rằng không phải tất cả các node đều được tạo ra như nhau theo cơ chế proof-of-useful-work (generalized mining) của Pocket. Và mật độ node hiện tại có thể tăng nhiều hơn nữa với các nhà cung cấp node chuyên nghiệp có được lợi thế nhờ vào các biện pháp chất lượng của V1.
Thứ nhất, không có lợi ích gì khi tham gia vào cuộc tranh luận về các định nghĩa nếu có sự bất đồng quan điểm và sẽ ngay lập tức lên án một hành động nếu nó không hoàn toàn phù hợp với lý tưởng. Thay vào đó, hãy thực tế hơn khi thực hiện bất kỳ nỗ lực nào nhằm khắc phục các lỗi có thể kiểm duyệt và xem đây là một cải thiện tích cực.
Thứ hai, Pocket nhằm mục đích ngăn chặn những cuộc tranh luận bằng cách chuyển sang truy cập ứng dụng permissionless, tối ưu hóa hiệu quả của V1 nhằm giảm yêu cầu kỹ thuật để khởi chạy một node và định vị phân khúc chi tiết hơn để mang lại cho các node nhỏ lợi thế cạnh tranh. Do đó, sự phi tập trung hoàn toàn cũng phải tuân theo quá trình phát triển từng bước một.
Cuối cùng, Web3 cần một cơ sở hạ tầng phi tập trung hơn. Tương lai multichain phụ thuộc vào sự tích hợp không ngừng giữa nhiều mạng, đòi hỏi cơ sở hạ tầng phi tập trung hơn nữa. Vì trọng tâm trong những năm qua chủ yếu tập trung vào việc tăng cường hệ sinh thái hợp đồng thông minh với L2s và L1s thay thế, nên tầm quan trọng của phần mềm trung gian phi tập trung vẫn còn phải được khám phá.
Với mạng lưới node phân tán để giải quyết một trong những khó khăn của không gian, Pocket có thể là mảnh ghép còn thiếu trong bức tranh toàn cảnh về sự phi tập trung vì tiềm năng giúp không gian crypto tách khỏi các đối tượng tập trung.
Các nhà phê bình gọi trạng thái permission hiện tại của Pocket’s Portal là một ví dụ về sự phi tập trung giả mạo. Họ có thể gán cho cơ chế proof-of-useful-work (generalized mining) của Pocket là một lợi thế không công bằng đối với các nhà cung cấp node chuyên nghiệp. Nhưng thay vì tranh cãi về ngữ nghĩa, trọng tâm của cuộc trò chuyện nên tập trung vào nỗ lực của Pocket nhằm giảm lỗi có thể kiểm duyệt, đây là một cải thiện tích cực.
Ngoài ra, Pocket muốn bác bỏ những tuyên bố của các nhà phê bình bằng cách chuyển dần sang truy cập ứng dụng permissionless, tối ưu hóa hiệu quả của V1 nhằm giảm bớt các yêu cầu kỹ thuật để khởi chạy một node và định vị phân khúc chi tiết hơn nhằm mang lại cho các node nhỏ lợi thế cạnh tranh.
Việc Pocket chuyển sang phi tập trung hoàn toàn sẽ đáp ứng nhu cầu của Web3 về một cơ sở hạ tầng phi tập trung hơn. Bởi vì một tương lai multichain phụ thuộc vào sự tích hợp không ngừng giữa nhiều mạng, trọng tâm trong vài năm qua là tăng cường hệ sinh thái hợp đồng thông minh với L2s và L1s thay thế.
Với mạng node phân tán hoạt động như một phần mềm trung gian phi tập trung, Pocket Network có thể trở thành chìa khóa giúp không gian crypto thoát khỏi các công ty tập trung hiện tại.
Bài viết được Đỗ Nguyễn Hồng Mai biên tập từ “Pocket Network: A Decentralized Solution to Access Handling” của Hasan Furkan Gök; với mục đích cung cấp thông tin và phi lợi nhuận. Chúng tôi không khuyến nghị đầu tư và không chịu trách nhiệm cho các quyết định đầu tư liên quan đến nội dung bài dịch.
—————————————————
👉 Theo dõi FXCE Ventures
Group Chat | Research Hub | FXCE Spotlight | Tổng hợp airdrop | FXCE Pool Coin